Chọn trang

ỨNG DỤNG LÝ DUYÊN KHỞI TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Lý Duyên Khởi là giáo lý quan trọng nhất của Phật giáo mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ trước khi đại giác ngộ thành bậc Đạo sư của chư Thiên và loài người. Lý Duyên Khởi là một chân lý tối diệu rất khó lĩnh hội của Phật pháp và cũng là nền tảng của tất cả các giáo lý cơ bản trong đạo Phật. Vì vậy, sự hiểu biết về Lý Duyên Khởi sẽ giúp người Phật tử nắm vững được các Giáo lý Phật Giáo Nguyên Thủy như Vô Thường, Vô Ngã, Nhân Quả, Nghiệp Báo, Tứ Đế và đi vào các hệ thống tư tưởng của Phật Giáo Phát Triển hướng đến giác ngộ giải thoát.

Lịch sử cho thấy loài người trên thế giới luôn bất an và sợ hãi trước sức mạnh của những hiện tượng thiên nhiên. Con người, nhất là vào thời xưa, vì nhu cầu tâm linh và thiếu hiểu biết, luôn tin có một thế lực vô hình hay những vị thần tạo ra và điều khiển các hiện tượng thiên nhiên và có thể ban thưởng hay xử phạt mình. Từ nhu cầu tâm linh này, tại Ấn độ trước khi đạo Phật xuất hiện, khái niệm thần linh ra đời và nó là nền tảng của đạo Bà La Môn giáo và các tôn giáo khác thời bấy giờ.

Lợi dụng sự lo sợ sự trừng phạt của thiên nhiên và nhu cầu tâm linh của tín đồ, đạo Bà La Môn chia ra đẳng cấp hưởng thụ là những Tu sĩ Bà La Môn là đẳng cấp cao thượng nhất có thể giúp tín đồ cúng tế cầu xin sự trợ giúp của các thần linh nên luôn được tôn kính, và có một cuộc sống sung sướng, hưởng thụ, và đẳng cấp phục vụ là những Tín đồ phục vụ cho những Tu sĩ này. Những Tín đồ của đạo Bà La Môn luôn tôn sùng cuồng dại và rất sợ thành phần Tu sĩ.

Thời đó, Phật giáo xuất hiện với Lý Duyên Khởi để chống lại với những quy luật của đẳng cấp hưởng thụ và để giải phóng quần chúng khỏi những thống trị, áp bức của những Tu sĩ Bà La Môn lợi dụng vào niềm tin và nhu cầu tâm linh của quần chúng.

Đặc tính cốt lõi của Duyên khởi là Vô thường và Vô ngã nên không có đẳng cấp. Đệ tử Phật đều bình đẳng và gồm bốn chúng: Hai chúng xuất gia là Tỳ kheo (Tăng) và Tỳ kheo ni (Ni); Hai chúng tại gia là Ưu bà tắc (Nam cư sĩ) và Ưu bà di (Nữ cư sĩ).

LÝ DUYÊN KHỞI

Duyên Khởi, tiếng Pali là “Paticcsamuppada”, nghĩa là nương theo các Duyên mà sanh. tiếng Anh dịch là “Dependent origination”. Lý Duyên Khởi đã được đức Phật tóm tắt trong kinh Tương Ưng Bộ như sau:

“Do cái này có mặt, nên cái kia có mặt.

Do cái này không có mặt, nên cái kia không có mặt.

Do cái này sinh, nên cái kia sinh.

Do cái này diệt, nên cái kia diệt”.

Lý Duyên Khởi khẳng định các pháp đều Vô thường và Vô ngã. Khi hai Nhân tiếp xúc với nhau (gọi là Duyên) rồi cùng diệt thì phát sinh ra (gọi là Khởi) một hay nhiều Quả. Pháp hay Quả đó trở thành Nhân và tiếp xúc với một Nhân khác rồi cũng cùng diệt để phát sinh ra một hay nhiều Quả khác. Tiến trình cứ tiếp diễn như vậy. Vì vậy, Vô thường trong đạo Phật là Sinh diệt chứ không phải Vô thường là biến đổi. Nghĩa là Nhân phải diệt thì Quả mới sinh.

Từ Lý Duyên Khởi, chúng ta có thể tư duy để thấy mọi sự vật hay các pháp Hữu vi đều từ Duyên mà Khởi lên, chứ không có Tự tánh. Nguyên lý này áp dụng với vạn sự, vạn vật trên thế gian. Thí dụ như thân tâm chúng ta luôn luôn Sinh diệt trong từng Sát na. Chúng ta không cảm nhận dược sự sinh diệt của Thân và Tâm vì Sát na là đơn vị thời gian rất nhỏ nên chúng ta không nhận thức được.

Duyên khởi cũng không phải do Nhân biến đổi, nhờ sự trợ giúp của Duyên, mà thành. Nếu các pháp do Nhân biến đổi mà thành Quả thì các pháp sẽ không sinh không diệt. Đây là Thường kiến và Ngã kiến, nghĩa là thấy sai về Lý Duyên Khởi vì các pháp vốn Vô thường và Vô ngã (Vô sở hữu).

Lý Duyên Khởi có các tính chất căn bản hay quy luật dưới đây:

1) Hai Nhân bình đẳng. Không Nhân nào là chính và Nhân nào là phụ.

2) Quả không thuộc Nhân 1 hay Nhân 2. Khi nói “Nhân nào thì Quả nấy” là nói về những hiện tượng tổng quát mà phàm phu như chúng ta thấy chứ đây là hiểu sai về tiến trình của Lý Duyên Khởi. Thí dụ như khi suy ngẫm lại thì chúng ta sẽ thấy con không hoàn toàn giống cha hay mẹ, hay người ngày nay khác xa với con người thời tiền sử, hay con người cách đây vài trăm ngàn năm hoàn toàn không giống chúng ta bây giờ.   

3) Vì Quả không phải của Nhân, và không Nhân nào làm chủ được Quả nên gọi là Vô Ngã.

4) Vì hai Nhân cùng diệt mới phát sinh ra (gọi là Khởi) một hay nhiều Quả nên các Pháp là Sinh diệt, Vô thường.

5) Khi một Nhân thay đổi thì Quả sẽ thay đổi.

Lý Duyên Khởi áp dụng với vạn sự, vạn vật. Lý Duyên Khởi cũng là căn bản của Luật nhân quả: Nhân và Duyên phát sinh ra Quả. Đối với Hữu tình chúng sanh thì Đức Phật dạy Giáo Lý Thập Nhị Nhân Duyên, tức 12 Nhân Duyên bao gồm Nhân quả, Nghiệp báo và Duyên khởi. (Xin đón xem THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN sẽ được đăng trên trang mạng của Chùa Ngàn Phật)

Từ Tuệ giác của Đức Phật, thì Nghiệp (hay Nhân trong Lý Duyên Khởi ) do Tâm ta tạo ra nghĩa là Tác ý hay chủ ý của chúng ta tạo Nghiệp (chứ không phải là một sự vay trả giữa hai đối tượng từ kiếp này sang kiếp khác vì Nhân phải diệt thì Quả mới sinh và Quả không thuộc vào Nhân), và không ai có thể tạo Nghiệp hay giảm Nghiệp cho ta được. Duyên (Duyên cũng được coi như Nhân trong Lý Duyên Khởi) có ảnh hưởng trực tiếp đến Nghiệp mới (Quả). Tiến trình diễn biến từ Nghiệp (Nhân) và Duyên đến Quả, có thể ngay trong hiện tại mà cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa là tùy theo Duyên, và cứ tiếp diễn như vậy. Đây là một chân lý tối diệu của một tiến trình do Tâm ta tạo ra (chứ không phải do hành động hay sự việc mà chúng ta thấy được) nên chỉ có những bậc đã Giác ngộ mới thấu triệt được.

KINH PHẠM VÕNG

Kinh Phạm Võng (Brahmajāla Sutta) là bài kinh đầu tiên trong số 34 bài kinh của Trường Bộ. (Chú thích: Kinh “Phạm Võng Kinh Lô-Xá-Na Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm” của Phật giáo Đại thừa không có nội dung quan hệ đến kinh này.)

Trong kinh Phạm võng, Đức Phật diễn tả rất chi tiết về 62 loại Tà kiến của các Tu sĩ Bà La Môn. Vì những Tà kiến này, đạo Bà La Môn, bây giờ là Ấn Độ giáo (Hinduism), tin là tất cả các hiện tượng trên thế gian đều do sự sáng tạo của đấng Phạm Thiên (Brahman), và có rất nhiều vị Thần để con người sùng bái, cúng tế cầu xin sự trợ giúp của các thần linh. Vì vậy, đạo Bà La Môn và rất nhiều tôn giáo ngoại đạo (không phải Phật giáo) là những tôn giáo của đa thần.

Kinh Phạm Võng khẳng định sự Giác ngộ của Đức Phật là ở phần Trí đức. Chính Ngài đã tự chứng tri, Giác ngộ. Kinh Phạm Võng cho thấy vì không hiểu Lý Duyên Khởi nên phàm phu đã nảy sinh 62 loại Tà kiến (miccha ditthi). Đức Phật đã khéo léo đặt phạm vi đạo Phật ra ngoài 62 loại Tà kiến và mọi tà giáo với bài kinh này. Bằng Tuệ tri của bậc Chánh giác, Đức Thế Tôn đã khẳng định 62 loại Tà kiến không phải là con đường đưa đến Giác ngộ, và Ngài đã phản bác, chỉ rõ những sai lầm và nguy hại của 62 loại Tà kiến này. Ngài đã dạy chúng ta con đường Trung đạo để đạt được cứu cánh Giải thoát.

Kinh Phạm Võng cũng dạy rất rõ về hai đẳng cấp trong đạo Bà La Môn. Như đã trình bày ở phần trên, đẳng cấp hưởng thụ là những Tu sĩ Bà La Môn giữ quyền thống trị tinh thần. Dựa vào nhu cầu tâm linh của tín đồ, họ phụ trách về lễ nghi, cúng bái, và giao tiếp với các thần linh nên được coi là đẳng cấp cao thượng nhất luôn được tôn kính, và có một cuộc sống sung sướng, hưởng thụ. Đẳng cấp phục vụ là những tín đồ tín đồ phục vụ cho những Tu sĩ Bà La Môn. Những tín đồ này luôn tôn sùng cuồng dại và rất sợ thành phần Tu sĩ vì họ được dạy là những Tu sĩ này có khả năng giao tiếp được với các vị Thần và ban phước được cho họ.

Lý Duyên Khởi khẳng định tất cả các Pháp đều do Duyên khởi nên Vô thường và Vô ngã vì vậy mọi người đều bình đẳng, không có đẳng cấp. Từ định luật thiên nhiên của Lý Duyên Khởi, Phật Giáo không chấp nhận có một đấng tối cao như Thượng đế sáng tạo ra thế giới và sinh ra loài người, và Phật Giáo cũng không chấp nhận có một vị thần nào có thể ban ơn, tạo phước, hay trừng phạt chúng sanh.

Kinh Phạm Võng cho chúng ta thấy rất rõ ràng về sự khác biệt giữa Đạo Phật và các tôn giáo khác. Trong khi đạo Bà La Môn và các tôn giáo khác vì Tà kiến nên chủ trương Hữu ngã thì Đức Phật, trong kinh Phạm Võng, khẳng định vạn sự, vạn vật trên thế gian đều Vô thường và Vô ngã. Trong khi đạo Bà La Môn và các tôn giáo khác chia ra đẳng cấp hưởng thụ và phục vụ thì Đức Phật khẳng định các đệ tử xuất gia và tại gia đều bình đẳng nên không có đẳng cấp. Trong khi đạo Bà La Môn và các tôn giáo khác tin vào một đấng sáng tạo và các thần linh thì Đức Phật khẳng định không có đấng sáng tạo và Tu là buông xả để Giác ngộ, Giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Nếu người tu theo đạo Phật mà không hiểu và thực hành được những lời dạy cốt lõi này của Đức Phật thì còn cách “Đạo” rất xa.

Vì Đạo Phật không có đẳng cấp phục vụ nên cần có sự Cung dưỡng (hay còn gọi là Cúng dường), nghĩa là cung cấp và nuôi dưỡng Tam bảo để Tam bảo được trường tồn làm lợi ích cho chúng sanh. Tăng Ni nhận sự cung kính Cúng dường của Phật tử, thì phải tự hiểu rằng mình có trọng trách tu hành tinh tấn, truyền bá Chánh pháp lợi ích chúng sanh. Tuy gọi là Cúng dường Tam bảo, nhưng thực chất là đặt nặng vào chư Tăng Ni với sứ mệnh duy trì mạng mạch Phật giáo ở nhân gian.

Đức Phật dạy rất rõ Chánh mạng của người xuất gia là trên xin Giáo pháp nhiệm mầu để nuôi tâm, dưới xin vật thực để nuôi thân, và gieo duyên lành cho Tín thí. Đối với hàng Phật tử xuất gia thì phải luôn tri ân và báo ân sự Cúng dường của đàn na tín thí để hổ trợ mình tu Giải thoát. Đối với hàng Phật tử tại gia thì Cúng dường đúng Pháp là Phương tiện thù thắng để người Phật tử kết duyên với các Thiện tri thức và huân tập Công đức vô lượng không thể nghĩ bàn. Khi người xuất gia biết tri ân sự Cúng dường và báo ân bằng cách giúp chúng sanh kết duyên với Tam Bảo, và người tại gia biết Cúng dường đúng Pháp thì cả người Cúng dường và người nhận Cúng dường đều được lợi lạc.

Đức Phật có Tịnh đức vì Ngài đã hoàn toàn trong sạch về Tiểu giới (Cula sila), Trung giới (Majjhima sila), và Đại giới (Maha sila). Điểm then chốt về hạnh tu xuất gia là phải thấu hiểu Lý Duyên Khởi làm nền tảng để xây dựng Chánh tín, tự nguyện khắc chế sự ham huốn của mình để nuôi dưỡng Tịnh đức. Người xuất gia, khi đã nhận được sự Cúng dường của Phật tử để tu Giải thoát thì phải luôn giữ Tâm thanh tịnh (Tiểu Giới), huân tập Chánh kiến để từ bỏ mọi lợi dưỡng của thế gian (Trung Giới), và đừng vì Mê tín mà phục vụ theo thị hiếu của người đời (Đại Giới).

Trong Thập Nhị Nhân Duyên (Triển khai từ Lý Duyên Khởi) thì Nghiệp do Tâm tạo, nghĩa là Tác ý hay chủ ý của chúng ta tạo Nghiệp. Khi hiểu được Nghiệp và Lý Duyên Khởi, người Phật tử tại gia sẽ không bị Vô minh che mắt hay rơi vào Tà kiến nên tinh tấn hộ trì Tam bảo, Cúng dường đúng Pháp để kết duyên với chư Thiện tri thức và huân tập Tịnh đức.

Ngoài những luận chấp trong kinh Phạm võng vẫn còn phù hợp trong thế giới hiện đại, chúng ta phải hiểu lý kinh qua tiến trình suy ngẫm, tư duy, thực tập thì mới có thể áp dụng những lời dạy của Đức Phật. 

Bài viết này chia sẻ những ứng dụng của Lý Duyên Khởi và triển khai sự khác biệt giữa Tà kiến phục vụ các Tu sĩ (dựa trên Hữu ngã, không Bình đẳng, không Thanh tịnh) trong đạo Bà La Môn và ngoại đạo và lợi ích của sự Cúng dường đúng Pháp (Vô ngã, Bình đẳng, Thanh tịnh) mà người Phật tử phải hiểu trên bước đường tu tập trong xã hội hiện nay.

CHIA SẺ ỨNG DỤNG TU TẬP

Lý Duyên Khởi là cốt lõi của Đạo Phật. Qua Lý Duyên Khởi, Đức Phật dạy chúng ta làm chủ vận mệnh của mình và con đường giải thoát sinh tử luân hồi, đưa con người và muôn loài đến an lạc, hạnh phúc. 

Nói chung, là phàm phu, chúng ta ai cũng đầy Tà kiến mà ít ai nhận thức được và có khi còn tưởng mình có Chánh kiến. Chúng ta thường không hiểu hoặc hiểu biết sai lạc về Lý Duyên Khởi và luôn Chấp thủ vào sự hiểu biết sai lạc đó; hoặc tuy hiểu nhưng vì Chấp thủ quá mạnh nên không cưỡng lại được. Trong đạo Phật, sự Chấp thủ vào hiểu biết sai lạc gọi là Vô minh. Nó như một tấm màn che mắt, không cho chúng ta lĩnh hội được Lý Duyên Khởi và lời dạy của Đức Thế Tôn. Cũng vì Vô minh nên chúng ta thường không không đủ nghị lực và can đảm để vượt ra ngoài môi trường Tà kiến của mình. Trong kinh Phạm Võng gọi đây là màng lưới ở cõi Trời Phạm bao trùm cả vũ trụ. Vì các Tà kiến và Chấp thủ nên chúng ta không thể cưỡng lại Nghiệp lực lôi kéo chúng ta trôi lăn mãi trong Luân hồi. 

Kinh Phạm Võng chẳng những đem lại cho chúng ta sự hiểu biết về Tà kiến và Giới luật mà còn dạy chúng ta lối sống giải thoát. Nhưng học Kinh thì phải thực hành thì mới hưởng được lợi lạc của lời Phật dạy trong Kinh.

TIỂU GIỚI, TRUNG GIỚI, ĐẠI GIỚI TRONG KINH PHẠM VÕNG

Mục đích của Giới trong đạo Phật là để giúp người Phật tử trở về với tự tánh thanh tịnh của mình. Tất cả Giới của đạo Phật, cho dù đó là 5 giới, 10 giới, 250, hay 348 giới, đều nằm trong Bát chánh đạo. Sự thành tựu Giới luật là Duyên cho Chánh Niệm khởi lên. Khi có Chánh niệm thì Bát chánh đạo sẽ tự động khởi lên theo Lý Duyên Khởi và chỉ có Bát chánh đạo mới đoạn tận Tham, Sân, Si. Lý Duyên Khởi có diệu dụng giúp chúng ta tự tháo gỡ (tu tập, sửa đổi, chuyển hóa) những nhận thức sai lầm (Tà kiến) đưa đến những vướng mắc (chấp trước, Mê tín) từ trước đến nay. Khi đã tháo gỡ những nhận thức sai lầm, chúng ta sẽ hiểu được bản chất của vạn sự, vạn vật (vạn pháp) như lời Phật dạy (Chánh kiến) để có thể Tư duy đúng đắn (Chánh tư duy) đưa đến những hành động đúng đắn (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng).

Kinh Đại thừa, Tiểu Thừa đều nói giữ giới là hy sinh, quên mình để cứu độ chúng sanh. Như đã trình bày ở phần trên, trong kinh Phạm Võng, Giới luật được phân định ra Tiểu, Trung và Đại giới. Tùy theo căn cơ và tâm nguyện, người học Phật nên cố gắng giữ được càng nhiều giới thì càng giúp chúng ta huân tập Tịnh đức trong tiến trình tu tập làm chủ thân tâm hay nói cách khác là làm chủ được nghiệp lực, vận mệnh.

Lý Duyên Khởi khẳng định tất cả các Pháp đều do Duyên khởi nên Vô thường và Vô ngã vì vậy mọi người đều bình đẳng, không có đẳng cấp. Từ định luật thiên nhiên của Lý Duyên Khởi, Phật Giáo không chấp nhận có một đấng tối cao như Thượng đế sáng tạo ra thế giới và sinh ra loài người, và Phật Giáo cũng không chấp nhận có một vị thần nào có thể ban ơn, tạo phước, hay trừng phạt chúng sanh.

Trong kinh Phạm Võng dạy rất rõ là hàng Phật tử xuất gia khi đã nhận sự Cúng dường của Phật tử mà vì Tà kiến và Mê tín nên còn phân biệt đẳng cấp, chia bè kết phái, phục vụ theo thị hiếu của người đời và hưởng thụ những lợi dưỡng của thế gian như những Tu sĩ Bà La Môn thì không huân tập được Tịnh đức. Như đã trình bày ở phần trên, Đức Phật đã khéo léo chia các giới thành Tiểu giới, Trung giới, và Đại giới để giúp các đệ tử của ngài đừng học theo các Tu sĩ Bà La Môn mà phải luôn giữ Tâm thanh tịnh (Tiểu Giới), huân tập Chánh kiến để từ bỏ mọi lợi dưỡng của thế gian (Trung Giới), và đừng vì Mê tín mà phục vụ theo thị hiếu của người đời (Đại Giới).

TIỂU GIỚI: Xa lìa tuyệt hẳn về Thập Ác và Thân Khẩu Ý Nghiệp. Luôn thuần tịnh, đoạn tận mọi phiền não thô và tế.

Muốn xa lìa tuyệt hẳn về Thập Ác thì phải giữ Mười giới thiện: Không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không tham lam, không sân giận, không si mê. Đây là 10 giới căn bản của người Phật tử.

Những giới này nằm trong Tiểu giới vì tuy nó ảnh hưởng rất lớn đến người phạm giới, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các chúng sanh khác. Phật tử xuất gia hay tại gia thường phạm 10 giới căn bản này. Hơn nữa, để phạm Trung giới hay Đại giới thì hành giả cũng thường phải phạm Tiểu giới. 

TRUNG GIỚI: Khước từ mọi lợi dưỡng của thế gian, thanh tịnh trong hạnh thiểu dục tri túc, sống giản dị, tinh khiết chánh hạnh, tịnh ngữ.

Trong kinh Phạm Võng có nói đến căn bản của đạo Bà La Môn là Hữu ngã, và chia ra đẳng cấp hưởng thụ là các Tu sĩ, tăng lữ và đẳng cấp phục vụ là các Tín đồ. Chúng ta có thể tự suy ngẫm, Tư duy để thấy người Phật tử xuất gia ngày nay dù đã nhận được sự Cúng dường của Phật tử mà nếu còn ham muốn và hưởng thụ lợi dưỡng thế gian như các Tu sĩ Bà La Môn trước đây thì phạm vào Trung giới. Điều này rất có hại cho Đạo Phật và cho các Tín thí Cúng dường cho mình. Khi người xuất gia vì ham lợi dưỡng của thế gian nên phạm Trung giới thì cũng thường phạm những Tiểu giới như không dâm dục, không vọng ngữ, không tham lam, không si mê, v.v.

Nếu không hiểu được Lý Duyên Khởi, nhất là Trung giới, thì người Phật tử tại gia dễ bị Vô minh che mắt hay bị rơi vào Tà kiến nên Cúng dường không đúng Pháp như giúp một vị tu xuất gia hưởng các lợi dưỡng của thế gian, tiêu xài phung phí, không giữ giới hạnh, xa lìa Phật pháp, làm hại đạo Phật thì cả người nhận của Cúng dường và người Cúng dường đều tạo nghiệp bất thiện.

Đức Phật có dạy người thuận sống với khổ hạnh thì thực hành pháp tu xuất gia. Nhờ tự nguyện khắc chế sự ham muốn của mình mà đức hạnh được nuôi dưỡng. Đây là điểm then chốt về hạnh tu xuất gia. Vì vậy, kinh Phạm Võng khẳng định người xuất gia phạm Trung giới như ham muốn lợi dưỡng thế gian vì vậy Thân, Khẩu, Ý không còn thanh tịnh. Ngoài những luận chấp trong kinh vẫn còn phù hợp trong thế giới hiện đại, dưới đây là những thí dụ có thể giúp chúng ta tránh phạm Trung giới trong xã hội hiện nay.

  • Chư Tổ luôn dạy người tu hạnh xuất gia, đừng vì Tà kiến mà chấp thủ vào những cái ‘của mình’ như pháp môn, chùa, đạo tràng, thầy, huynh đệ, nhóm của tôi, v.v. Cũng vì cái “Tôi” quá lớn, nên luôn tự khen mình và những gì của mình, không giao lưu hay giảng ở những nơi mình không ưa thích, coi thường những Phật tử Cúng dường không được như ý mình hay cần sự giúp đỡ của mình, v.v. Đây là biểu tượng của Vô minh và ảnh hưởng của giai cấp hưởng thụ trong đạo Bà La Môn trọng vào Hữu ngã nên tuy hình tướng xuất gia nhưng tâm không thanh tịnh và còn cách “Đạo” rất xa nên dễ bị đọa lạc.
  • Cúng dường là một hình thức bố thí thường được dùng khi cúng dường để hộ trì Tam Bảo hoằng dương Phật pháp nghĩa là truyền bá những lời dạy hay giáo lý của đức Phật. Pháp Sư phổ biến Pháp thí có Tà kiến như giảng dạy không đúng Pháp hoặc sai lạc Kinh giáo để thu hút tín đồ thì phạm Trung giới.                                                                                                                                                                                                                                                                            Phật tử vì không hiểu Giáo lý hay vì một Tư tác ý bất thiện, như cầu danh hoặc vì lợi dưỡng, mà Cúng dường cho những Pháp Sư phổ biến Pháp thí có Tà kiến thì không tạo được phước đức mà còn tạo nghiệp bất thiện vì giúp đỡ truyền bá Tà kiến làm mê hoặc lòng người, xa lìa Phật pháp. Người Phật tử phải luôn cảnh giác tìm cách tu sửa để giải trừ bớt những bất thiện trong tâm, chứ đừng quá chú trọng vào những hình thức tạo phước nhưng lại để tâm không thạnh tịnh, rơi vào Tà kiến tạo Duyên bất thiện nên dễ bị đọa lạc.                                                                                                                                                                                                Thiền Sư Ajahn Chah (1918-1992) là một vị cao tăng Thái Lan có nói: “Có quá nhiều người cứ đi “tìm” Công đức, đi “tạo” Công đức. Nhưng đường đúng là họ nên tìm cách tu để giải trừ bớt những bất thiện trong tâm, dù trễ vẫn còn tốt. Nhưng chẳng mấy ai muốn làm như vậy, chẳng mấy ai quan tâm đến việc tu sửa tâm tính.”                                                                             
  • Ngày nay, vì không hiểu giáo lý và thiếu sự hướng dẫn, chỉ dạy, nên có nhiều Phật tử tôn sùng cuồng dại thành phần Tăng lữ có thể vì sợ tội hay để tạo phước. Thí dụ như họ rất sợ Thầy, luôn tán thán Thầy, không dám đi hay giúp chùa khác vì sợ Thầy giận, biết Thầy sai mà vẫn phải nghe theo và không dám có ý kiến vì sợ tội, v.v.                                                                                                                                                                                                                             Thay vì chỉ dạy Phật tử về Lý Duyên Khởi và mọi người đều bình đẳng, một số Pháp sư, vì Tà kiến nên ham danh lợi muốn Phật tử phục vụ và tôn sùng mình thì phạm Trung giới. Đạo Phật như vầy thì có khác gì đẳng cấp Tu sĩ hưởng thụ và đẳng cấp tín đồ phục vụ của đạo Bà La Môn trước đây.                                                                                                                                                                                                                                                                                                Theo lý mà xét đoán thì tôn sùng thầy không tạo được phước vì chỉ có những người tham danh, hám lợi, thích địa vị mới muốn được tôn sùng chứ sự tôn sùng không đem lại lợi ích gì cho người tu sĩ Phật Giáo. Nếu chúng ta tôn sùng một vị thầy giữ giới và tu hành nghiêm túc thì chúng ta phạm lỗi coi thường, bất kính với vị này. Nếu chúng ta tôn sùng một vị thầy còn ham danh lợi, địa vị thì không những chúng ta không tạo được phước mà có thể còn làm gia tăng bản ngã làm thầy luyến tục, khó tu hơn. Như vậy, trong cả hai trường hợp, chẳng ích lợi gì cho cả đôi bên. Hơn nữa tập quán này còn có hại cho tương lai Phật Pháp vì một khi được tôn sùng thì vị thầy có thể sẽ thấy mình lúc nào cũng đúng nên không cần phải học hỏi, sửa đổi và không có lý do để hướng thiện nữa. Người Phật tử hiểu đạo thì Như lý tác ý nên không tạo nghiệp xấu nghĩa là tác ý đúng Pháp như luôn kính tăng nhưng không tôn sùng thầy (xin xem:  Ảnh Hưởng Của Tập Quán Nghiệp Khi Đến Chùa)                                                   
  • Khi khuyên hay tạo điều kiện để một vị Tỳ kheo, không vì lợi ích chúng sanh, bỏ Tăng đoàn (thầy và các huynh đệ của mình) để ra ở riêng thì chúng ta có thể phạm vào tội phá hòa hợp Tăng. Sự Cúng dường thiếu suy nghĩ này có thể cản trở sự hòa hợp của Tăng đoàn và đưa vị Tỳ kheo này về gần hơn với thế tục. Người Phật tử phải hiểu, để tránh vô tình tạo nghiệp xấu, khi một Tu sĩ phải ở chùa riêng (trừ trường hợp quý Thầy tự tu trong môi trường tuyệt đối như thường nhập thất) thì phải lo cho chùa của mình nên sẽ không có nhiều thời gian tu học và góp sức với Tăng đoàn để phát triển Đạo Phật.                                                                      
  • Người Phật tử vì Tà kiến mà nói xấu sau lưng, phá sự hòa hợp, hay cản trở sự giúp đỡ một ngôi chùa, đạo tràng, hay một đoàn thể tu học thì cũng giống như Phá hòa hợp Tăng là ác nghiệp rất nặng. Thí dụ như khi có người thấy một nơi tu học thanh tịnh đến nhờ chúng ta giúp đỡ nếu chúng ta vì tâm ác, không ưa thích, ganh tị, hẹp lượng, v.v., nên đã không giúp thì thôi mà chúng ta lại còn dựa vào những điều mình không được mắt thấy, tai nghe, tìm cách nói xấu, để người đó đừng giúp đỡ hay đừng khuyên người khác giúp đỡ nơi tu hành thanh tịnh này thì tạo Ác nghiệp rất nặng. Khi lâm chung, bản ngã và sự ganh tỵ, sân hận giảm bớt nên lúc đó cảm thấy hối hận, sợ hãi, bất an trong khi tâm thức chuyển vào trạng thái vi tế lúc lâm chung của một Cận tử nghiệp rất xấu dễ đưa đến tái sanh vào ba đường ác.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bực của kỹ năng truyền thông, thì dùng điện thoại, Facebook, hoặc các mạng xã hội để dựng chuyện nói xấu, xúi giục, ly gián, chụp mũ, v.v. có khả năng cô lập hay tiêu diệt cả một đạo tràng hay một trung tâm tu học.

ĐẠI GIỚI: Nuôi mạng chân chánh, không vì phục vụ theo thị hiếu của người đời, chánh mạng thuần khiết.

Người xuất gia phạm Đại giới là dù đã dùng các món ăn Tín thí Cúng dường mà vẫn còn tự nuôi sống bằng những Tà mạng, Tà hạnh. Các giới trong Đại giới được lập ra để ngăn ngừa những Tà mạng và Tà hạnh mang tính chất Mê tín làm chúng ta mất đi niềm tin nơi Tam Bảo nên rất có hại cho Phật pháp.  

Người xuất gia phạm Đại giới tự nuôi sống bằng những Tà mạng, Tà hạnh thường vì ham muốn lợi dưỡng thế gian nên cũng thường phạm Trung giới, và Tiểu giới như vọng ngữ, tham lam, si mê, v.v.

Phật tử tại gia phải có nghề nghiệp lương thiện, hợp pháp. Nếu không được như vậy thì thà chịu thống khổ trong một thời gian rồi thay đổi nghề nghiệp. Đừng vì Tà kiến mà giữ mãi đời sống Tà mạng để hại mình, hại người.

Dưới đây là một số thí dụ về Đại giới trong xã hội hiện nay:

  • Kinh Phạm Võng dạy rất rõ là khi người xuất gia dầu đã nhận sự Cúng dường, mà vẫn còn ham muốn hưởng thụ bằng những tà hạnh như bói toán, xem tướng, xem địa lý, đoán mộng, cầu thần ban phước, cầu ma quỷ, dùng bùa chú, coi ngày lành để rước dâu, lựa ngày giờ tốt để mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, để khỏi làm các điều đã hứa, để được che chở, v.v. là phạm Đại giới. Đây không chỉ là Tà kiến mà còn là Mê tín làm mất đi niềm tin nơi Tam Bảo của chính mình và của Tín thí.                                                                                                                                                                                                        Người Phật tử muốn tu tập có kết quả tốt phải nhận ra được ảnh hưởng của đạo Bà La Môn và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong các nghi lễ Phật giáo tại các chùa. Có một số người siêng năng đi chùa, ăn chay, niệm Phật, Cúng dường, bố thí, nhưng đến lúc về già vì yêu mến cái thân già yếu này mà bỏ ăn chay, cầu thần linh, xem bói toán, trở nên keo kiệt, v, v. Đi chùa mà còn Tà kiến, Mê tín thì khi gặp hoàn cảnh không tốt sẽ rất dễ bị dao động, chuyển hướng.
  • Người xuất gia sống nhờ vào sự bố thí của tín đồ là sống Chánh mạng. Để tránh phạm Đại giới, chư Tổ luôn khuyên người xuất gia không được phung phí của Cúng dường, biết tần tiện và tạo công đức để hồi hướng phước đức đến cho Tín thí. Thí dụ như khi người xuất gia dùng tiền Cúng dường vào một việc gì thì phải tự hỏi nếu là tiền của mình (khi chưa xuất gia) thì mình có dùng tiền như vậy không? Chư Tổ cũng dạy người xuất gia không biến của công thành tài sản riêng, ít ham muốn, luôn biết đủ, và tinh tấn tu hành làm tấm gương sáng để sách tấn hàng tại gia đi theo sự hướng dẫn tu tập của mình là Chánh mạng.
  • Trong Kinh Phạm Võng dạy rõ người xuất gia phải nuôi mạng chân chánh, không vì phục vụ theo thị hiếu của người đời. Nhưng hiện nay có nhiều Pháp sư giảng Pháp theo thị hiếu của Phật tử như nói quá nhiều chuyện thế tục, hoặc ca hát, ngâm thơ, pha trò cho vui nhộn trong các buổi giảng, v.v. Nếu phục vụ theo thị hiếu của Phật tử để thu hút tín đồ, mê hoặc lòng người với Tư tác ý cầu danh hoặc vì lợi dưỡng v.v. thì phạm Đại giới và đây cũng là một loại Tà kiến. Ngoài ra, muốn đắc nhân tâm và giỏi về chuyện thế tục thì người tu chắc phải Tác ý, học hỏi, thực hành, hay có kinh nghiệm về những chuyện ngoài đời vì vậy Tâm sẽ xa dần với Đạo.                                                                                                                                                                                                                                                                                                          Chùa là biểu hiện của sự học hỏi và tu tập Phật Pháp của chư Tăng Ni. Khi một ngôi chùa luôn có những thời khóa sinh hoạt tu học hàng ngày cho chư Tăng Ni ở chùa, và không quá chú trọng vào những sinh hoạt cho Phật tử sẽ giúp chư Tăng Ni ở chùa giữ Chánh mạng thuần khiết và tránh phục vụ theo thị hiếu của Phật tử nên không phạm Trung giới.
  • Người thuận sống với lạc hạnh thì thực hành pháp tu tại gia vì vậy gia đình là biểu hiện sự tu tập của người Phật tử tại gia. Phật tử tại gia tu ở nhà (tu tại gia) là chính và đến chùa là phương tiện để học Phật và hộ trì Tam Bảo. Nếu Phật tử tại gia chỉ biết đi chùa mà không tu ở nhà và áp dụng Phật pháp trong gia đình và xã hội thì không đúng là Phật tử tại gia. Người Phật tử tại gia hãy tự suy ngẫm, tư duy xem một tuần có 168 giờ mà người mình chỉ đi lễ Phật khoảng một giờ ở chùa thì có giải trừ bớt được những bất thiện trong tâm hay không? Hay thí dụ như nếu chúng ta chỉ tập thể dục một hay vài giờ trong một tuần xem sức khỏe của mình có tiến bộ được như mình mong muốn không? Hay nếu chúng ta chỉ nghe băng giảng vào lúc rảnh rỗi và chỉ vào lớp mỗi tuần một giờ nghe thầy giảng rồi đi thi Trung học, Cao học, Đại học, v.v. xem có đậu hay không?   

Người Phật tử nói chung phải cố gắng giữ càng nhiều càng tốt các giới trong Tiểu giới, Trung giới, và Đại giới để huân tập Tịnh đức hay Định lực để có thể tu Huệ. Trí huệ là sự thấy biết sáng suốt sinh ra bởi Định lực. Đây là cảnh giới cao nhất trong Tam vô lậu học. Trí tuệ (khác với Trí huệ) là khả năng của tâm trí học hỏi từ bên ngoài và của người đi trước)

Ngày nay, dù là tu xuất gia hay tu tại gia thì ai trong chúng ta cũng có cả một thư viện Phật học lấy ra được từ máy vi tính hay điện thoại. Chúng ta có thể vào các Trang Mạng Phật Giáo để học hỏi và nghiên cứu về Lý Duyên Khởi. Đây là một thuận duyên. Đối với Kinh Phạm Võng, chúng ta không cần học thuộc hay nhớ hết cả 62 Tà kiến mà chỉ cần luôn cảnh giác là chúng đều do sự chấp thủ của chúng ta mà ra. Nếu chúng ta không bám níu vào và đeo đuổi các cảm thọ nơi giác quan, thì chúng ta có thể bớt đi Tà kiến. Muốn tu tập có kết quả tốt thì chúng ta phải có Chánh kiến, Như lý tác ý và không được xa rời tinh thần Trung đạo (xin xem: TÌM HIỂU VÀ ÁP DỤNG NHƯ LÝ TÁC Ý).

Việc học Phật đối với chúng ta sẽ có hiệu quả khi chúng ta có được cái nhìn tổng quan về mục đích cốt lõi của Đạo Phật và từ đó tìm được phương hướng để đi và trình tự tu tập có hệ thống cho chính mình. Hiệu quả thực hành Phật pháp của chúng ta tùy thuộc vào mức độ hiểu biết về giáo lý, khả năng chuyển hóa kinh nghiệm của các bậc Thầy được ghi chép trong kinh sách thành kinh nghiệm của mình. Muốn được như vậy, chúng ta phải nỗ lực ở ba giai đoạn: 1) VĂN – Lắng nghe Giáo pháp; 2) TƯ – Tư duy về những điều đã nghe để hiểu đúng Giáo pháp; 3) TU – Thực hành Giáo pháp. Tuy nhiên, theo Lý Duyên Khởi thì có một điểm chính yếu mà chúng ta phải thực hiện cho bằng được đó là sự buông xả thì mới thật là tu tập nghiêm chỉnh theo Đạo Phật. (xin xem: TÌM HIỂU VÀ THỰC HÀNH VĂN TƯ TU)

Phật tử Việt Nam thường thích nghe băng giảng hơn học hỏi, nghiên cứu, tư duy kinh sách. Chúng ta thường quan tâm đến người giảng hơn là giáo lý được giảng dạy và dễ hài lòng với các bài giảng có tính cách hài hước, vui nhộn, đôi khi ra ngoài phạm vi tu học. Nếu thiếu sự tu học và thực hành thì lời dạy của chư Phật và của chư Tổ không được thể hiện trong đời sống và vì vậy chúng ta khó có khả năng chuyển nghiệp. Đây là điều đáng tiếc vì đạo Phật là con đường thực hành để diệt khổ và đem hạnh phúc đến cho muôn loài. Chúng ta hãy tự suy nghĩ để thấy là có ai chỉ cần nghe rất nhiều băng dạy bơi mà nhảy xuống sông bơi được qua bờ bên kia không?

Câu hỏi được đặt ra là nếu Lý Duyên Khởi khẳng định tính chất vô ngã của các Pháp và là giáo lý căn bản và quan trọng nhất của đạo Phật, thì tại sao Phật tử chúng ta, dù là giới tại gia hay xuất gia, nhiều người vẫn còn chấp ngã và mê tín. Hay nói một cách khác là nhiều người vẫn còn không hiểu, không tin, hay không áp dụng được Lý Duyên Khởi trong việc tu tập hay trong đời sống. Sở dĩ có những trường hợp đáng tiếc này là vì Tà kiến.  Tà kiến là cái thấy biết sai lệch với Lý Duyên Khởi và lời dạy của Đức Phật, và là nguồn gốc của mọi bất thiện. Người vì Tà kiến mà chấp ngã càng nặng thì tâm càng bất an, Trí huệ càng giảm, và rất dễ bị đọa vào ba đường ác.

Người Phật tử tại gia phải học hỏi những giáo lý căn bản để tránh giúp giới xuất gia phạm Đại giới và Trung giới. Phật giáo Nguyên thủy ở Campuchia và Thái Lan còn in giới Tỳ Kheo và Tỳ kheo Ni để ở các chùa cho Phật tử yểm trợ các Sư giữ giới tốt hơn. Dựa theo kinh điển, chúng ta phải hiểu là Đức Phật chưa bao giờ khuyên hay ngăn cấm Phật tử tại gia xem đọc giới luật của Tỳ kheo. Ngày nay các giới của Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni cũng được phổ biến trên các trang mạng. Vì Tư tác hay mục đích là khởi Nghiệp, nên Phật tử tìm hiểu về giới Tỳ Kheo và Tỳ kheo Ni để yểm trợ chư Tăng Ni thì không tạo nghiệp bất thiện chứ đọc để tìm lỗi thì không nên. Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó làm mà các Tỳ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì Phật tử càng tăng thêm tâm cung kính. Khi các Tỳ kheo thấy Phật tử biết những giới luật mình đã lãnh thọ, thì càng phải nỗ lực hành trì không dám buông lung. Điều này rất có lợi cho sự hưng thịnh của đạo Phật.

Chúng ta ai cũng biết Cúng dường là tu phước. Phước báo là do tu bố thí Cúng dường mà được. Công đức và phước đức luôn gắn liền với nhau, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Vì thế, tu tập bố thí muốn đạt được lợi ích lớn và kết quả lớn thì tâm phải rộng lớn, không mong cầu, không trói buộc, bố thí để trang nghiêm tâm; bố thí như vậy mới đạt được công đức, phước báo vô lượng.

Có những cách Cúng dường không sợ bị ảnh hưởng bởi cảm tính hay rơi vào Tà kiến như Cúng dường cho một Trang Mạng có hàng trăm ngàn người vào học hỏi các bài viết có giá trị đế tu học thì chúng ta [Tâm pháp của ta] kết duyên được với rất nhiều người đang tu học Phật Pháp trên khắp thế giới. Đây là Cúng dường đúng Pháp vì thuần do Tác ý thiện theo tinh thần Ba la mật là những yếu tố vượt thoát ra khỏi trói buộc của bản ngã (không thấy người cho, không thấy người nhận, và không thấy vật thí). Sự Cúng dường này có công năng đưa người và mình từ bờ mê lầm của chúng sanh đến bờ giác ngộ của chư Phật. Khi người Phật tử cúng dường Tam Bảo đúng Pháp thì lượng Công đức đồng với Chánh pháp, nghĩa là công đức giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi. Tuy nhiên sự Cúng dường này ít có người làm được (xin xem CÔNG ĐỨC BỐ THÍ NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT).

Chúng ta thường có thành kiến hay chấp vào Tà kiến và theo đó mà hành động, vì thế hầu hết hành động của chúng ta tạo ra nghiệp bất thiện. Trong trường hợp này, sự mong muốn mạnh mẽ là “Ái” thúc đẩy bởi Tà kiến từ “Thủ” (chấp vào Hữu ngã hay cái “Tôi”)  tạo ra nghiệp bất thiện đưa tới quả báo là tái sinh vào các đường Ác đạo. Do đó, Thủ và Tà kiến là nguyên nhân của Nghiệp khởi ra Tái sinh. Tà kiến rất có hại trên bước đường tu tập và sự phát triển của đạo Phật.

Trong giai đoạn chết và tái sanh, khi các ý tưởng, sự hiểu biết, và cảm xúc thô chưa hoàn toàn tan rã, người có công phu tu hành tránh xa Tà kiến thường không sợ hãi và cảm thấy an bình trong khi tâm thức chuyển vào trạng thái vi tế lúc lâm chung của một Cận tử nghiệp tốt đưa đến một tái sanh tốt đẹp. Nói tóm lại, nếu hàng ngày chúng ta tránh không rơi vào Tà kiến và thường làm chủ, hay kiểm soát, được thân tâm, thì khi chết chúng cũng vẫn làm được như vậy cho đến khi tâm thức chuyển vào trạng thái vi tế lúc lâm chung. Khi một người thường làm chủ, hay kiểm soát, được thân tâm, thì dù có bị chết bất đắc kỳ tử đi nữa thì tâm thức của họ cũng đang ở trạng thái an bình. Người này, vì hàng ngày sống buông xả và tâm thức luôn hướng về lợi tha, không tự lợi, vướng mắc, nên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Cận tử nghiệp để có một tái sanh tốt đẹp ở một cảnh giới cao. (xin xem: CẬN TỬ NGHIỆP VÀ THÂN TRUNG ẤM KHI CHẾT VÀ TÁI SANH)

Nguyện cầu Chư Phật gia hộ cho quý Phật tử có một đời sống an vui, hạnh phúc, đầy hỷ lạc trong việc tu học và hộ trì Tam Bảo, và khi bỏ báo thân sẽ có được một tái sanh tốt đẹp hướng đến Giác ngộ, Giải thoát.

Thị Phước

Chùa Ngàn Phật

 

Join Our Mailing List

 

Cúng Dường Tam Bảo

   CÚNG DƯỜNG   

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát

 MẪU XIN CẦU AN & CẦU SIÊU 

 

 CHÙA NGÀN PHẬT

153 Wolfetrail Rd.
Greensboro, NC 27406

(919) 349-6892

[email protected]

Viếng Chùa Ngàn Phật Online để huân tập Chánh Kiến và bảo vệ Phật Pháp

 

 

CHÙA NGÀN PHẬT

153 Wolfetrail Rd.
Greensboro, NC 27406

(919) 349-6892

[email protected]

Viếng Chùa Ngàn Phật Online để huân tập Chánh Kiến và bảo vệ Phật Pháp 

Round Logo white