Chọn trang

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

Chưa bao giờ người Phật tử lại có nhiều phương tiện để học hỏi giáo lý như hiện nay. Trong quá khứ, khi Đại sư Trí Giả nghe nói có sự hiện hữu của Kinh Lăng Nghiêm, Ngài hướng về nước Ấn Độ lễ lạy suốt mười tám năm cầu nguyện Kinh này sẽ được truyền bá đến Trung Hoa. Với sự tiến bộ vượt bực của kỹ năng truyền thông, Phật tử chúng ta ngày nay có cả một thư viện Phật học, có thể lấy ra từ máy vi tính. Chúng ta có thể đọc Kinh, xem/nghe giảng Kinh, nghiên cứu tài liệu, thảo luận Phật Pháp, v.v. Chúng ta cũng có thể, qua những bài viết và phim ảnh, thăm viếng rất nhiều ngôi chùa trên khắp thế giới. Ngoài ra chúng ta còn thực hành được các hạnh bố thí, cúng dường, và tham dự vào các hoạt động từ thiện khắp nơi mà không cần phải ra khỏi phòng.

Tuy nhiên chúng ta phải lựa chọn để chỉ đọc và xem những gì có thể giúp chúng ta có một niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo và có được kiến thức chân chánh, hiểu biết sáng suốt đúng theo chân lý thiện, ác, nhân, quả. Chúng ta phải cẩn thận đừng nghe hoặc xem những bài giảng có thể làm trở ngại cho sự tu học của mình. Thí dụ như những bài giảng không đúng với Chánh Pháp hoặc có tính cách quá khích, mê tín, huyền bí, v.v. Ngoài ra, chúng ta phải luôn cảnh giác trước sự cám dỗ của âm thanh và hình ảnh có thể dễ dàng lấy ra được trong máy vi tính.

Nói như vậy để hàng Phật tử chúng ta phải biết trân quý hoàn cảnh và những điều kiện thuận lợi mà chúng ta hiện có để tinh tấn tu tập chứ đừng bỏ lỡ cơ hội thù thắng này.

Nhờ học hỏi giáo lý, chúng ta có khái niệm về duyên sinh, khổ, vô thường, và vô ngã dựa trên những hiện tượng như sinh, già, bệnh, chết, và sự thành, trụ, hoại, diệt của các pháp. Tuy nhiên, Phật tử chúng ta thường lầm tưởng những kiến thức này là cứu cánh của đạo Phật, và cho đây là giác ngộ, giải thoát. Nhưng kiến thức về những hiện tượng vật lý, hóa học và Phật giáo khác nhau rất nhiều trong phương cách tìm hiểu và trải nghiệm sự thật. Phật giáo không chú trọng và không để tâm vào đối tượng mà chỉ quan sát, phát hiện, tìm hiểu sự nhận thức và tác ý của nội tâm đối với các đối tượng với mục đích giúp chúng ta tu tâm, dưỡng tánh để chuyển hóa, thành tựu an lạc hạnh phúc hiện tiền, và bồi đắp công đức cho sự giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi.

Vì sự khác biệt này, mà có người tuy hiểu rõ duyên sinh, khổ, vô thường, vô ngã, và mặc dù đi chùa, lễ Phật, bố thí, cúng dường, và làm việc công đức, v.v., nhưng tâm vẫn bất an vì tập khí (thói quen có từ quá khứ, huân tập trong nhiều đời, nhiều kiếp) quen chạy theo ngũ dục và từ đó sinh ra luyến ái, sân hận; hơn thua, ganh tị, chấp trước, thành kiến, khổ đau, v.v. Lý trí thì hiểu bản chất của đời sống là duyên sinh, khổ, vô thường, vô ngã, nhưng vì không khéo tu tập nên nội tâm chưa thấm nhuần những sự thật này.

Dưới đây là những giải đáp cho một số thắc mắc về Phật Pháp để làm sáng tỏ hơn những giáo lý và pháp hành thiết yếu với hy vọng có thể giúp chúng ta trong tiến trình tu học.

Quý Phật tử cũng có thể tham khảo những giải đáp bằng Anh Ngữ hợp với trình độ của Giới trẻ và người Mỹ chưa hiểu nhiều về Phật Pháp -“FAQ ABOUT BUDDHISM” và “FAQ ABOUT MEDITATION AND RETREATS” trên trang mạng (website) của chùa.

Xin quý Phật tử giới thiệu trang mạng của Chùa Ngàn Phật cho người thân và bạn bè. Quý Phật tử có thể copy những chương trình tu học, những bài viết của chùa lên Facebook của quý vị. Đây là một phương cách rất hiệu quả để hoằng dương Chánh Pháp vì những bài viết trên trang mạng của Chùa có tác dụng đem lợi lạc đến cho người đọc, và dễ dàng phổ biến (share) với nhiều người khác.

 

PHẬT GIÁO LÀ GÌ?

Phật giáo có thể định nghĩa là bản chất thật, tuyệt đối của thế gian, hay là giáo pháp của đức Phật.

Theo định nghĩa thứ nhất, đạo Phật bao gồm thân tâm và giác ngộ và là con đường thực tập tâm linh để nhận ra sự thật tuyệt đối (chân đế) của thế gian. Bậc giác ngộ vì nhìn thấu được bản chất của mọi sự vật trên thế gian đều vô ngã, theo nhân duyên mà sinh diệt, nên luôn buông xả, không chấp trước vì vậy đoạn trừ được phiền não, và từ đó chấm dứt mọi khổ đau.

Theo định nghĩa thứ hai, giáo pháp của đức Phật đặt trọng tâm dùng từ bi và trí tuệ để chuyển hóa tâm. Tùy theo căn cơ của từng chúng sanh, lợi ích của Phật Pháp có thể được chia thành ba bậc:

  • Lợi ích cho kiếp này và những kiếp sau.
  • Lợi ích cho sự chấm dứt khổ đau của sanh tử luân hồi. Đây là mục đích tối thượng của Phật Giáo Nguyên Thủy.
  • Lợi ích cho sự tu thành Phật để độ chúng sanh. Đây là mục đích tối thượng của Phật Giáo Phát Triển.

Muốn hưởng được lợi ích của Phật Pháp, người Phật tử phải tích cực thực hành những lời dạy của đức Phật dưới đây:

  • Tinh tấn giữ gìn các giới đã thọ nhận, học hỏi, tư duy, và thực hành lời dạy của chư Phật cùng các Hiền Thánh Tăng trong Kinh luật.
  • Phát Bồ Đề Tâm, trau dồi trí tuệ để có Chánh kiến làm kim chỉ nam trên con đường đưa đến giác ngộ.
  • Tin sâu nhân quả, sống đạo đức, tu sửa lỗi lầm, luôn thận trọng và chịu trách nhiệm về mọi lời nói và hành động của mình.
  • Không tham chấp, hiểu rõ bản chất của mọi sự vật trên thế gian đều vô ngã, theo nhân duyên mà sinh diệt, ba cõi là nơi đau khổ, tâm cầu giác ngộ hiện tiền.
  • Dứt trừ mê tín hoặc truyền bá mê tín để khỏi gieo nghiệp tà kiến khó hưởng dư phước, lẩn quẩn khổ đau, không ngày thoát ra.
  • Hộ trì Tam Bảo, hoằng Pháp lợi sanh, bình đẳng tùy hỷ với mọi Phật sự để bồi đắp công đức cho sự giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi.
  • Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, thương xót chúng sanh, cứu người giúp đời.
  • Luôn nhớ ơn Phật, nghĩ nhớ đến những lời Phật dạy, phát nguyện đời đời làm đệ tử Phật, tinh tấn tu hành để đền ơn chư Phật, sống trong an lạc, hạnh phúc hiện tiền.

Đừng coi những điều trên là những khó khăn hay ràng buộc mà bỏ lỡ đi cơ hội trì giữ, tinh tấn thực hành những giới hạnh thiết yếu để chúng ta có thể ngăn ngừa các việc làm xấu ác, ngăn ngừa các khả năng tạo nghiệp xấu ác đang còn tiềm ẩn trong tâm thức, và bồi đắp công đức cho sự giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi.

GIỚI LUẬT CỦA ĐẠO PHẬT CÓ ĐẶC ĐIỂM GÌ SO VỚI CÁC ĐẠO KHÁC?

Đứng trên phương diện đời sống đạo đức, thì giới luật của đạo Phật không khác biệt lắm so với các tôn giáo khác. Đứng trên phương diện tu học để chuyển hóa tâm đưa đến giải thoát, giác ngộ thì năm giới trong Phật giáo bảo vệ người Phật tử khỏi tạo các nghiệp của thân, miệng và ý. Đối với thân, không sát sinh, không trộm cướp, và không tà dâm; đối với miệng, không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời thêu dệt, và không nói lời xấu ác; đối với ý, không tham lam bỏn xẻn, không sân hận thù oán, và không tà kiến cố chấp. Do vậy, nếu giữ được năm giới căn bản, người Phật tử ngăn ngừa các việc làm xấu ác, ngăn ngừa các khả năng tạo nghiệp xấu ác đang còn tiềm ẩn trong tâm thức, và phát triển nhân phẩm đạo đức của con người. Ngoài năm giới căn bản này, trong Phật giáo còn có những giới luật của hàng Thanh Văn và Bồ-tát.

Vì vậy, dù tu theo bất kỳ tông phái nào, điểm trọng yếu là tu tập Giới (sila), Định (samadhi) và Tuệ (prajna). Ba phẩm chất hay Ba pháp vô lậu (anasrava) này luôn hỗ trợ và tương tác lẫn nhau (giới đức càng lớn, thì định càng sâu; định càng sâu thì tuệ giác càng sáng; tuệ càng sáng thì niềm tin giữ giới càng vững) để giúp người Phật tử giải thoát mọi khổ đau và, tùy theo căn cơ và tâm nguyện, thoát ra khỏi vòng sanh tử, luân hồi.

Tại sao chỉ giữ giới mà sanh ra định được? Khi giữ giới, không tạo nghiệp xấu, tâm ta trở nên an bình nên sinh ra định, nhưng định lực này rất yếu. Giữ giới với Chánh niệm, nghĩa là chiếu rọi ánh sáng Chánh niệm vào để biết ta đang làm gì (xin xem thêm phần trả lời của câu hỏi TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI CÓ CHÁNH NIỆM?), là tu Giới thì mới có định lực mạnh được. Thí dụ như khi chúng ta không sát sanh, khởi đầu ta nên thực tập Như lý tác ý để đưa chánh kiến vào đời sống hàng ngày và nhờ có ánh sáng Chánh niệm, chúng ta dần dần huân tập tiếp xúc với tự tánh của mình để cho nó hiển lộ đức hiếu sanh. Tu tập như vậy gọi là tu niệm, định, tuệ cũng gọi là giới, định, tuệ. Gọi là niệm (giới), định, tuệ, để phân biệt cho dễ hiểu chứ trong niệm đã có định và trong định đã có tuệ.

LÀM SAO ĐỂ HOẰNG DƯƠNG PHẬT PHÁP TẠI MỸ?

Hoằng dương Phật Pháp là trách vụ chung của mọi người con Phật. Hoằng là mở rộng ra, làm cho rộng lớn hơn. Hoằng dương Phật Pháp là mở rộng ra hay truyền bá những lời dạy hay giáo lý của đức Phật.

Đối tượng của việc hoằng dương Phật Pháp ở Mỹ trước đây là những người Việt tị nạn. Nhưng hiện nay muốn hoằng dương Phật Pháp ở Mỹ thì chúng ta phải chú trọng vào thế hệ trẻ người Việt sinh ra và lớn lên ở Mỹ và người Mỹ như đã được trình bày trong bài viết: GÓP Ý VỀ NHU CẦU BẢO TỒN PGVN TẠI MỸ & TÀI LIỆU THAM KHẢO (https://www.chuanganphat.org/gop y ve nhu cau bao ve Phat Giao VN Tai My)

Phật Pháp luôn đầy đủ “Thể, Tướng, Dụng”. Thể (hay thể tánh) là bản chất nội hàm, Tướng là hình dáng bên ngoài, Dụng là lợi ích của mỗi Pháp. Nặng về Tướng và Dụng thì dễ bị rơi vào mê tín và xa dần với phẩm chất giải thoát của Thể, nên Thể không còn hiệu dụng nữa. Giới trẻ và người Mỹ, có khuynh hướng khoa học thực dụng, thường đến với đạo Phật vì Thể (thể tánh giải thoát của các Pháp) và Dụng. Nếu chúng ta chú ý một chút thì sẽ thấy giới trẻ và người Mỹ thường không mấy quan tâm đến Tướng (hình dáng và những sinh hoạt) ở những ngôi chùa Việt Nam. Vì vậy muốn hoằng dương Phật Pháp ở Mỹ thì chúng ta phải thay đổi phương pháp giáo dục chú trọng vào Thể và Dụng. Phật Pháp đặt trọng tâm dùng từ bi và trí tuệ để chuyển hóa tâm nên rất thích hợp với người Mỹ và thế hệ trẻ người Việt sanh ra và lớn lên tại Mỹ. Khi giới trẻ và người Mỹ thấy được sự lợi lạc của Phật Pháp, họ sẽ tự học hỏi thêm về giáo lý rất nhanh từ sách vở và trên các trang mạng.

CHÙA CÓ PHẢI LÀ MỘT TỔ CHỨC BẤT VỤ LỢI KHÔNG?

Vào năm 1969, Đạo Luật Cải Cách Thuế đã ban hành Mục 501 (c) 3 trong Bộ Luật Dịch Vụ Thuế Vụ, trong đó nói rằng các tổ chức từ thiện, tôn giáo, chính trị, v.v. ở Mỹ có những hoạt động nằm trong khuôn khổ các điều kiện cần thiết phải có của một tổ chức bất vụ lợi có thể cung cấp biên nhận tiền tài trợ để miễn thuế cho các nhà tài trợ của họ. Cho đến năm 2021 thì có khoảng 1.8 triệu tổ chức bất vụ lợi ở Mỹ.

Do đạo luật này, các Chùa ở Mỹ có thể nộp đơn để được chính phủ chấp thuận là một tổ chức bất vụ lợi được hợp pháp cung cấp biên nhận miễn thuế cho các nhà tài trợ của họ dựa theo Mục 501 (c) 3. Đạo luật này có những điều lệ căn bản như các tổ chức bất vụ lợi phải gởi biên nhận cho các nhà tài trợ (như Phật tử cúng dường) để họ trừ thuế cuối năm và để chính phủ kiểm soát tiền thu nhập khi cần thiết. Những người làm trong Ban điều hành của một tổ chức bất vụ lợi có thể được trả lương, nhưng những người làm trong Hội đồng quản trị “The Board of Directors” không được lãnh lương. Khi một tổ chức không còn hoạt động thì tất cả những tài sản được tạo ra bởi các nhà tài trợ (donations) của tổ chức này phải được chuyển cho một tổ chức bất vụ lợi khác hay để chính phủ quản lý, v.v.  Nếu phạm những điều luật này thì sẽ bị truy tố ra pháp luật như những trường hợp thâm lạm công quỹ hay trốn thuế.       

TU THEO ĐẠI THỪA CÓ NÊN TU THÊM CÁC PHÁP TIỂU THỪA KHÔNG?

Lịch sử của Phật giáo được chia làm ba thời kỳ:

  • Phật Giáo Nguyên Thủy (thuật ngữ này được dùng để chỉ thời kỳ trước khi Tăng đoàn phân chia, và cũng là tên gọi của Trưởng lão bộ) gồm những giáo lý do chính đức Phật giảng dạy khi Ngài còn tại thế từ giữa thế kỷ thứ 6 tới giữa thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch.
  • Phật Giáo Bộ Phái (khởi đầu là Trưởng lão bộ và Đại chúng bộ, sau đó từ 2 bộ phái đầu tiên này đã hình thành ra khoảng 18 bộ phái) gồm những giáo lý đã được khai triển từ những giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy, bắt đầu từ khoảng giữa thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch. Chúng ta không nên nhầm lẫn Tiểu Thừa (Hinayana) với Trưởng Lão Bộ (Theravada) bởi vì những danh từ này không đồng nghĩa 
  • Phật Giáo Phát Triển (hay Đại Thừa) gồm những giáo lý đã được khai triển từ những giáo lý của Phật Giáo Bộ Phái và Phật Giáo Nguyên Thủy, được hình thành khoảng thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch.

Như vậy, Phật Giáo Phát Triển đã được hình thành từ Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Bộ Phái. Là Phật tử, chúng ta không nên phân biệt, chấp trước về những sự khác biệt giữa Phật Giáo Phát Triển và Phật Giáo Nguyên Thủy vì trong giáo lý Phật Giáo Phát Triển đã có sẵn giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Bộ Phái. Thí dụ như trong Kinh A Di Đà có đoạn “Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường ……. Tiếng chim đó diễn nói những pháp như Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần..v..v..” Từ đoạn Kinh này, chúng ta có thể thấy những giống chim ở thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà đang diễn nói những Giáo Pháp Nguyên Thủy, Tứ thánh đế, Bát chánh đạo của Đức Phật Thích Ca thuyết giảng.

Trong Kinh còn có đoạn “Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế.” Như vậy là trên thế giới Cực Lạc cũng có rất nhiều Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán và theo sự hiểu biết của chúng ta thì những vị này tu pháp Tiểu Thừa. Từ những đoạn Kinh này, chúng ta cũng có thể có thể thấy được Tiểu Thừa hay Đại Thừa là do tâm nguyện của người con Phật chứ không hẳn do nơi Pháp môn.

Nếu chúng ta chịu khó nghiên cứu sẽ thấy không có nhiều sự khác nhau giữa Phật giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Phát Triển về những giáo lý căn bản như:

  • Cả hai trường phái giống nhau về Lý duyên khởi.
  • Cả hai đều hiểu giống nhau về Tứ diệu đế.
  • Cả hai có nhiều điểm tương tự về Bát chánh đạo.
  • Cả hai chấp nhận Ba bản chất của sự sống (Khổ, Vô thường, Vô ngã).
  • Cả hai không có sự khác biệt nào về Ba phần tu học (Giới, Định, Tuệ).

Mẫu người lý tưởng của Phật Giáo Phát Triển là tu tập với chí nguyện thành đạt Đạo Quả Chánh Giác, và thực hành Bồ Tát Đạo để độ tất cả chúng sinh được giải thoát. Trong khi giáo lý và sự hành trì trong Phật Giáo Nguyên Thủy chú trọng vào sự giác ngộ, vào dòng Thánh Đạo, và đắc Quả A La Hán, sau đó giảng dạy giáo lý mình đã chứng ngộ cho người. Đứng trên quan niệm là nếu mình muốn tự cứu mình và cứu được nhiều người khỏi chết đuối dưới sông thì mình phải biết bơi rất giỏi trước đã. Cũng vậy, muốn tu tập có kết quả tốt cho chính mình và có thể độ được nhiều chúng sanh thì người Phật tử tu theo Phật Giáo Phát Triển (Đại Thừa), nếu có hoàn cảnh và điều kiện, cũng nên tu học thêm giáo lý Phật Giáo Nguyên Thủy. Điều này không có gì trở ngại vì Đức Phật dạy nước bốn biển chỉ có một vị mặn; cũng vậy, pháp Phật tuy có rất nhiều pháp môn nhưng chỉ có một vị giải thoát mà thôi.

Cũng cần phải nói thêm là năm 1950, Hội Phật Giáo Thế  giới  (World Fellowship of Buddhists),  khai mạc ở Colombo, nhất trí quyết định rằng danh từ “Tiểu Thừa” (Hinayana) phải được dẹp bỏ vì nó không có liên quan gì với Phật Giáo Nguyên Thủy hiện nay ở Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào, vùng Hạ lưu sông Mekong của Việt Nam…

XIN CHO BIẾT VỀ SỰ QUAN HỆ GIỮA THẦY VÀ ĐỆ TỬ TRONG ĐẠO PHẬT?

Muốn tu hành có kết quả chúng ta phải có Thầy hướng dẫn. Nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu thì thấy hầu hết các vị Tăng ưu tú từ trước đến nay đều có rất nhiều Thầy. Là Phật tử, ngoài Phật, chư đại Bồ Tát, chư Tổ và Thầy truyền giới ra, chúng ta nên có thêm quý Thầy khác để hướng dẫn dìu dắt ta phương pháp tu học để thoát ly sanh tử, luân hồi khổ đau. Chúng ta phải tri ân, phụng sự quý Thầy đã hướng dẫn, giúp đỡ chúng ta tu học. Được như vậy thì chúng ta đang kết duyên với Tam Bảo và gặp nhiều thuận duyên trong việc tu hành. Khi tìm Thầy để hướng dẫn chúng ta tu học, chúng ta phải tìm hiểu vị Thầy này dựa vào ba phẩm chất phải có của một vị Thầy đó là: (1) kiến thức của Thầy về Phật Pháp, (2) đạo đức của Thầy qua việc trì giới, và (3) Kinh nghiệm tu học của Thầy. Nếu chúng ta có được phước duyên có được một vị Thầy và được gần gũi học hỏi với Thầy mình, thì chúng ta nên thường xuyên tận tụy phụng sự Thầy bằng cách: Bậc hạ là cúng dường phẩm vật. Nếu có hoàn cảnh, thỉnh thoảng chúng ta nên làm cơm hoặc mang thức ăn, trái cây, nhang, đèn đến cúng dường Thầy (thay vì mời Thầy về nhà, vì như vậy Thầy phải bỏ thì giờ đi đến nhà mình). Bậc trung là hầu hạ. Chúng ta nên thường xuyên đến thăm Thầy và giúp đỡ Thầy trong các công việc hàng ngày. Bậc thượng là thực hành Pháp. Chúng ta phải tinh tấn tu hành, siêng năng làm những Phật sự do Thầy chỉ dẫn, và luôn kính trọng, nói lời hòa nhã để Thầy vui lòng. Chúng ta phải thực hành bất cứ điều gì Thầy dạy đúng với Phật Pháp.

Nếu chúng ta chưa tìm được một vị Thầy thì có thể là vì chúng ta chưa có đủ phước duyên. Chúng ta hãy tha thiết mong cầu một vị Thầy thì khi mà chúng ta đã hội đủ các điều kiện nghĩa là khi nhân duyên đầy đủ, trong kiếp này hoặc những kiếp sau, thì vị Thầy của mình thường mong cầu sẽ xuất hiện. Ngày nay, các trang mạng đã trở thành những phương tiện thuận lợi để chúng ta tìm kiếm, học hỏi những bài giảng rất hữu ích cho việc tu học từ những vị Thầy rất thông hiểu và chứng nghiệm về Phật Pháp. Đây là một phước duyên rất lớn, so với ngày xưa Kinh điển rất hiếm, mà chúng ta phải trân quý. Chúng ta chắc cũng biết chuyện ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư nghe nói Kinh Lăng Nghiêm chỉ dạy cho chúng sanh ngộ được chơn tâm, nên mỗi ngày hai lần sớm chiều Ngài xây mặt về phía Tây (Ấn Độ) quì lạy cầu khẩn cho Kinh Lăng Nghiêm được sớm truyền bá qua Trung Hoa để lợi ích quần sanh. Nhưng Ngài đã không được thấy Kinh này vì các vị vua Ấn Độ cho Kinh này là một quốc bảo nên giữ gìn nghiêm mật. Mãi đến hơn 100 năm sau thì Kinh Lăng Nghiêm mới được Ngài Bát Thích Mật Đế, người ở Ấn Độ, viết Kinh trong miếng lụa mỏng rồi cuốn lại, xẻ thịt bắp vế nhét vào và băng lại làm như người có ghẻ, mới đem được sang Trung Hoa. Ngày nay ngược lại Kinh điển và các bài giảng có quá nhiều trên Internet nên chúng ta phải lựa chọn những bài giảng đúng theo Chánh Pháp và thích hợp với trình độ của mình để học và thực hành. Dù theo bất cứ Pháp môn nào, chúng ta cũng nên học hỏi thêm về những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Lục ba la mật, v.v. Khi chúng ta đọc sách hoặc nghe băng giảng của quý Thầy mà chúng ta nhận thấy giúp chúng ta hiểu về Phật Pháp để tu hành, đến gần hơn với con đường giác ngộ, thì chúng ta phải coi những vị này như Thầy mình. Chúng ta đừng thấy các bài giảng có quá nhiều trên Internet mà vì đó coi thường Phật Pháp, thiếu lòng tôn kính với Pháp sư, xa lánh Chùa, và không hết lòng hộ trì Phật Pháp.

Về câu hỏi XIN CHO BIẾT VỀ SỰ QUAN HỆ GIỮA THẦY VÀ ĐỆ TỬ TRONG ĐẠO PHẬT?, dưới đây là tóm lược bài viết của Ngài Chogyam Trungpa Rinpoche về mối quan hệ giữa Thầy và đệ tử trong Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, và Phật Giáo Mật Tông. (https://www.lionsroar.com/the-teacher-student-relationship-may-2012/). Ngài Chogyam Trungpa là một thiền sư Phật giáo Tây Tạng và là người nắm giữ cả hai dòng truyền thừa Kagyu và Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, vị tổ thứ 11 của Trungpa tulkus, trụ trì tối cao của các tu viện Surmang, học giả, giáo viên, nhà thơ, nghệ sĩ và người sáng lập huyền thoại về Shambhala như một xã hội giác ngộ mà sau này được gọi là Phật giáo Shambhala .

Theo Ngài Chogyam Trungpa, tùy theo truyền thống, người Thầy được coi như một trưởng lão, một người bạn tâm linh, một Đạo sư Kim cương thừa. Vị Thầy luôn dùng những phương tiện thiện xảo, hợp với căn cơ, để giúp đệ tử phát triển trí tuệ. Sự phát triển của mối quan hệ của Thầy đối với đệ tử trong đạo Phật cũng giống như tiến trình của một người khởi đầu nuôi dưỡng một bé sơ sinh, sau đó là nuôi dưỡng và giúp đỡ một thanh thiếu niên khi đứa bé lớn lên, và cuối cùng là giúp đỡ một người lớn khi nó đã trưởng thành.

Người đệ tử, nhờ vào sự nuôi dưỡng, giúp đỡ của Thầy, phải cố gắng tu học để trưởng thành trong thế giới Phật giáo nghĩa là phải đối mặt với những vấn đề liên hệ đến thân tâm và giác ngộ. Người đệ tử phải tích cực phát triển ý thức để có Chánh kiến, từ bỏ những thói quen xấu, huân tập những thói quen tốt khi đối diện với thế giới hiện tượng và với bản thân. Để làm được điều này, Người đệ tử cần bắt đầu bằng một ấn tượng hay thần tượng về một người đáng kính như cha mẹ để noi theo. Trong con đường giải thoát cá nhân của Phật Giáo Nguyên Thủy, ấn tượng hay hình ảnh đó được gọi là “Trưởng lão”.

Ở thời điểm này, đời sống tâm linh và sự tu học của người đệ tử không phải ở nơi đức tin cao siêu hay tầm nhìn xa, mà là sự tu tập về những hiểu biết thiết thực và cái nhìn đúng đắn (Chánh kiến) dựa trên những kinh nghiệm và thực chứng của vị Trưởng lão. Vị Trưởng lão luôn chia sẻ với đệ tử những trải nghiệm, kinh nghiệm của mình, và chỉ dẫn những gì cần làm và những gì cần tránh.

Mối quan hệ của Thầy và đệ tử phát triển ở một cấp độ khác trong Phật Giáo Đại Thừa. Trong tiến trình thực hành Bồ Tát Đạo, Người Thầy trở thành “người bạn đạo”, hay người bạn tâm linh. Người bạn đạo này giúp đỡ và đòi hỏi người đệ tử phải cẩn thận và công tâm hơn rất nhiều. Người Thầy là một người bạn đạo cũng giống như một ông chú giàu có chu cấp tiền bạc cho chúng ta. Tuy nhiên, ông ấy không muốn chúng ta chỉ quanh quẩn và sống nhờ tiền của ông ấy. Ông chú giàu có (người Thầy) này luôn muốn chúng ta cần cù, tinh tấn tu tập Lục độ và hành Bồ Tát Đạo. Đây là sự chuyển tiếp về sự trải nghiệm của người Thầy như một người lớn tuổi (Trưởng lão) và như một người bạn tinh thần (người bạn đạo).

Trong Kim cương thừa, hay còn gọi là Mật thừa, mối quan hệ giữa Thầy hay Đạo sư và đệ tử trở nên rất phức tạp. Đạo sư (vajra) không phải là một Trưởng lão hay một người bạn đạo. Vị Đạo sư thường được coi như là một chiến binh hay một võ sĩ đạo, và vị này thường chỉ nhận một vài đệ tử. Vì vậy Đạo sư Kim cương sẽ không chấp nhận những học viên chậm hiểu và cẩu thả.

Sau khi trải qua con đường giải thoát cá nhân và Đại thừa, ở thời điểm này, cách dạy dỗ của bậc Đạo sư là tạo ra các tình huống giảng dạy đặc biệt (phương tiện) trong cuộc sống để dẫn dắt đệ tử trên con đường đưa đến giác ngộ. Vị Đạo sư đòi hỏi một sự tin tưởng tuyệt đối và vô điều kiện từ người đệ tử trong mọi trường hợp dù là không hợp lý, và không cần biết là người đệ tử có đồng ý hay không.

TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN PHẢI CÓ CHÁNH NIỆM?

Chánh niệm là một trong tám chi phần của Bát chánh đạo và là yếu tố không thể thiếu trong tiến trình áp dụng 37 Phẩm trợ đạo. Trên con đường tịnh hóa nội tâm, không phân biệt tông phái, Chánh niệm là pháp môn tu tập căn bản quan trọng hàng đầu giúp người Phật tử gội rửa những phiền não nhiễm ô trong tâm hồn của mình bằng năng lực tỉnh thức của chính mình. Có tỉnh thức thì chúng ta mới có thể nhận biết và tránh xa các việc xấu ác và phát triển các việc lành.

Chánh niệm là sự biết rõ (Tuệ tri) được những gì đang có mặt, đang xảy ra. Đức Phật, trong Kinh Di Giáo, dạy rằng: “Mất Chánh niệm là mất công đức”. Trong thiền tông, Chánh niệm còn được gọi là trái tim của thiền quán. Đối với Phật Giáo Nguyên Thủy, Tứ niệm xứ là bốn nền tảng Chánh niệm và cũng là căn bản then chốt của thiền tập. Trong Kinh A Di Đà của Tịnh Độ tông, đức Phật dạy rằng nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân chấp trì danh hiệu của đức Phật A Di Đà từ một đến bảy ngày một lòng không tạp loạn sẽ được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc. Niệm Phật một lòng không tạp loạn là niệm Phật với Chánh niệm.

Trên căn bản thì Chánh niệm có nghĩa là chú tâm vào một đối tượng, ở trong giây phút hiện tại và không phán xét hay phân biệt. Vì thân luôn ở trong hiện tại nên nói ở trong giây phút hiện tại có nghĩa là hòa nhập thân và tâm hay cột tâm vào thân. Nếu để tâm chạy lăng xăng thì gọi là mất Chánh niệm. Khi thiếu hay mất Chánh niệm thì những thói quen và tập quán vô ý thức của nghiệp sẽ làm chủ và trong trường hợp này tâm ta bị điều khiến hay thúc đẩy bởi những năng lực ham muốn, sân hận, sợ hãi hoặc bất an luôn ở trong ta. Vì vậy nếu không có tu tập Chánh niệm, thì những suy nghĩ và hành động của chúng ta dễ bị rơi vào trường hợp xa lìa thực tại và có thể làm mất đi niềm tin vào khả năng giải thoát của chính mình. Khởi đầu chúng ta nên thực tập Như lý tác ý (hướng tâm đúng) để đưa chánh kiến vào những suy nghĩ và hành động của mình. Lý đây là lý giải thoát hay lý Kinh từ những lời dạy của Chư Phật. Chúng ta chỉ cần thực tập Như lý tác ý một thời gian thì thân và tâm sẽ dễ hợp nhất và sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong việc tu tập Chánh niệm. 

Người Phật tử cần phải có Chánh niệm để có thể tịnh hóa ba nghiệp (thân, khẩu, ý) và  phát triển những năng lượng an lạc, hạnh phúc vốn có ngay trong đời sống hiện tại của chính mình. Người có thực tập Chánh niệm thì dù tu pháp môn nào cũng không bị trở ngại nhờ năng lực của Chánh niệm giúp bạn vượt qua những ham muốn, bám víu, luyến tiếc trần tục để bạn có thể trở về an trú trong dòng tâm thức giác ngộ của tuệ giác vô ngã. Cũng vậy, Chánh niệm là nguồn ánh sáng của nội tâm có thể soi đường dẫn lối cho bạn trong giờ phút lâm chung.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ CHÁNH NIỆM?

Muốn có kết quả tốt trong việc tu tập Chánh niệm, người Phật tử phải biết khả năng và hoàn cảnh của mình để chọn cho mình một pháp tu và những pháp hành thích hợp. Khả năng này còn gọi là Trạch pháp, nghĩa là dùng sự hiểu biết Phật Pháp và trí huệ đưa đến giải thoát để lựa chọn pháp lành và tránh pháp dữ để tu trì. (xin xem phần giải đáp câu hỏi TRẠCH PHÁP LÀ GÌ?)

Nếu bạn luôn bận rộn với cuộc sống trong gia đình và ngoài xã hội thì bạn có thể bắt đầu bằng cách huân tập và phát triển Chánh niệm trong đời sống hàng ngày, nghĩa là bạn nên cố gắng tập trung tâm ý vào từng công việc mà bạn đang làm. Chỉ tập trung vào mỗi việc một lúc; không làm việc này mà nghĩ đến việc khác. Thí dụ như khi uống nước, bạn nên tập chú tâm vào từng động tác một của việc uống nước với thái độ chậm rãi, nhẹ nhàng, cẩn trọng, và hoan hỷ. Khi đã thuần thục phát triển Chánh niệm trong một số việc căn bản dễ thực tập, bạn sẽ tập làm những công việc hằng ngày khác với một sự chú tâm và một thái độ như vậy. Song song với sự thực tập này, ban nên tìm đọc hay nghe các bài giảng về pháp áp dụng thiền tập Chánh niệm trong đời sống. Sự phát triển Chánh niệm trong đời sống hàng ngày sẽ giúp bạn cảm nhận được hương vị của sự an trú trong hiện tại. Nhờ thực hành Chánh niệm trong đời sống hàng ngày như vậy, bạn có thể giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống một cách bình tĩnh, sáng suốt hơn vì bớt dựa trên cảm tính, cảm xúc, và lòng ham muốn. Trong trường hợp bạn rất bận rộn với cuộc sống trong gia đình và ngoài xã hội mà thực hành thiền tập thì khi ngồi thiền dễ bị hôn trầm, loạn tưởng.

Nếu bạn có thời gian và điều kiện để tu tập, thì việc đầu tiên là bạn phải chọn cho mình một pháp môn tu. Phương pháp phổ biến nhất để tu tập Chánh niệm là theo dõi hơi thở. Theo Thanh Tịnh Đạo Luận: “Hơi thở là một cái cọc, niệm là sợi dây vô hình để buộc cái tâm lại với thân”. Do đó, theo dõi hơi thở ra vào một cách liên tục sẽ giúp cho tâm được an trú và niệm được vững chãi. Từ đây bạn có thể đi sâu vào định và phát triển tuệ giác. Đây là phương pháp quán niệm hơi thở mà Đức Phật đã dạy. Bạn có thể thực tập theo dõi hơi thở trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, bất kỳ lúc nào và ở đâu. Thiền Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực tập quán niệm hơi thở rất có hiệu quả. (xin xem phần trả lời câu hỏi THIỀN TỨ NIỆM XỨ LÀ GÌ?)

Sau khi đã chọn pháp môn tu và các pháp hành, bạn phải tạo cho mình một bối cảnh thuận duyên như tìm một nơi yên tịnh để tham thiền nhập định. Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Đức Phật dạy các đệ tử: “Làm thế nào để phát triển và thực tập phép Quán Niệm Hơi Thở, để phép này mang lại những thành quả và lợi lạc lớn?”; “Này đây, quý vị khất sĩ, người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng,và đặt vững Chánh niệm trước mặt mình…”. Đoạn Kinh này cho thấy dù là những đệ tử Phật là những người có căn cơ cũng phải tìm một nơi vắng vẻ, thanh tịnh để phát triển và thực tập Chánh niệm qua phép quán niệm hơi thở. Đức Phật cũng dạy: “Phép Quán Niệm Hơi Thở…. nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem đến những thành quả và lợi lạc lớn”. Điểm chủ yếu ở đây là hành giả phải thực tập liên tục, không gián đoạn.

Sau khi đã có một môi trường  thích hợp để tu tập, phải chuẩn bị cho thân tâm mình một nền móng vững chắc để tu tập. Trước hết, bạn phải tin tưởng chắc chắn pháp hành thiền này sẽ giúp bạn có Chánh niệm đưa đến giác ngộ giải thoát và bạn cần phải có những phát nguyện mạnh mẽ như để giải thoát, cứu độ chúng sanh, v.v.

Bạn phải nghiên cứu, học hỏi Kinh Tứ Niệm Xứ và các Kinh liên hệ đến Kinh này như Kinh An Ban Thủ Ý, Kinh Quán Niệm Hơi Thở, v.v. Cố Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh và nhiều Thiền Sư khác đều khuyên các đệ tử của mình phải học thuộc Kinh Tứ Niệm Xứ.

Trước khi chính thức tu tập, nếu có hoàn cảnh và điều kiện, bạn nên làm việc công đức như bố thí, cúng dường để tạo công đức và tịnh tu trong một thời gian cũng như huân tập và phát triển Chánh niệm trong đời sống hàng ngày để tịnh hóa thân tâm.

Về phần thực tập, bạn có thể y theo Kinh Tứ Niệm Xứ đã chỉ dạy cũng như huân tu Chánh niệm trong đời sống hàng ngày như đã trình bày ở trên. Vì Kinh Tứ Niệm Xứ rất giản dị, nên khi tu tập bạn không nên coi thường pháp môn này và cần phải cố gắng, kiên nhẫn. Trong thời gian đầu, bạn cần phải tạo trợ duyên như thường xuyên tham dự những khóa tu và nghe các bài giảng về Thiền Tứ Niệm Xứ hay còn gọi là Thiền Minh Sát Tuệ và nhờ sự nhắc nhở, giảng giải của thiện tri thức.

Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Ðức Phật xưa đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó, các đệ tử đã giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, Phật nói: ” Này quý vị (các Tỳ Kheo đệ tử Phật), đây ta chỉ cho quý vị con đường duy nhất để có thể gạn lọc bản thân, vượt thoát mọi phiền não, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn: Ðó là Pháp Niệm Xứ”. Ngày nay nhiều Phật tử lại bỏ qua và lãng quên pháp môn này, cho đó là pháp Tiểu Thừa. Ðây là một điều rất đáng tiếc.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ CHÁNH ĐỊNH?

Định (Samadhi) là trạng thái tâm an, vắng lặng. Trong sinh hoạt hàng ngày như khi nấu ăn, khi đọc sách, khi lái xe, chúng ta cần có định để có thể bình tĩnh, ổn định, nhận biết, v.v.  Chánh định là định không có tham, sân, si, hay định đưa đến an lạc, giải thoát và giác ngộ. Vì vậy, trong Chánh định lúc nào cũng có mặt Chánh niệm. Không có Chánh niệm thì sẽ không có Chánh định. Do vậy, Chánh niệm và Chánh định luôn đi đôi với nhau. Tuy nhiên, yếu tố tạo nên sức mạnh của định (định lực) chính là tinh tấn. Đây là một trong Ngũ lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ) cần thiết cho việc tu tập

Chánh định có hai loại. Loại thứ nhất là định trong định tức là định trong các tầng thiền Sắc giới và Vô Sắc giới. Đức Phật đã đi vào định sơ thiền năm Ngài 5 tuổi khi theo phụ vương đi dự lễ hạ điền, tại cội cây hồng táo. Tại cội bồ-đề, ngài chỉ thư thái, nhẹ nhàng theo dõi hơi thở, là ngài đã đi vào định sơ thiền, nhẹ nhàng đi vào nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, v.v. Sau này, khi ngài diễn đạt lại nội dung sơ thiền ấy, ngài nói: “Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ!” Vậy định do rời các dục và các ác pháp chính là chánh định và là định trong định.

Loại định này chỉ có trong khi hành thiền thiền chỉ (samatha bhavana) có mục đích chế ngự 5 chướng ngại của định gọi là triền cái (nivaraṇa) là tham lam, sân hận, trảo cử, hôn trầm, nghi ngờ. Định này làm cho tâm an trú, thuộc ba chi định phần trong Bát Thánh Đạo: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Loại thứ hai là định có tuệ. Về loại định này, muốn chứng ngộ và an trú trong Chánh định, chúng ta phải hành thiền Minh Sát Tuệ hay Tứ niệm Xứ (vipassana) qua ba chi định phần: Chánh niệm, Chánh định, Chánh kiến mà gọi tắt là Niệm, Định, Tuệ của Bát chánh đạo. Phải có Tuệ hay Chánh kiến để hiểu rõ về Chánh định thì mới có thể tu tập đúng để chứng ngộ và an trú Chánh định. Nếu hiểu biết sai về Chánh định, thuộc về Tà kiến sẽ không thể tu tập đúng để chứng ngộ và an trú Chánh định được.

Có định hay không có định trong các tầng thiền Sắc giới đều có thể chuyển qua hành thiền Minh Sát Tuệ được. Tu định trong định đạt tứ thiền thì, nếu muốn, có thể đắc bốn tầng thiền vô sắc hoặc qua Minh Sát Tuệ để giác ngộ, giải thoát.

LÀM SAO ĐỂ CÓ MỘT TÁI SANH TỐT ĐẸP?

Làm thế nào để có một tái sanh tốt đẹp là một câu hỏi và cũng là ước muốn của người Phật tử. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang có thân người và rất nhiều phương tiện để học hỏi, tu tập, và áp dụng Phật Pháp, thì một câu hỏi khác không kém phần quan trọng là chúng ta phải làm sao để sau khi chết có thể giữ được thân người và khỏi bị đọa và ba đường ác (điạ ngục, ngạ quỷ, súc sanh)? Người Phật tử nên ghi nhớ lời Phật dạy trong Kinh Tương Ưng bộ là được làm người cũng khó như một con rùa mù cứ mỗi trăm năm nổi lên một lần mà có thể chui cổ vào trong một khúc cây có một lỗ hổng trên mặt nước. 

Nói chung, muốn có một tái sinh tốt đẹp (phước báo ở cõi trời, cõi người, cõi Phật) hay để khỏi bị đọa và ba đường ác thì người Phật tử phải hành trì Lục độ nhất là bố thí/cúng dường (xin xem thêm THẾ NÀO LÀ CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP?) và giữ năm giới, cùng Bốn vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Hành trì các Pháp này nghĩa là áp dụng, duy trì, giữ gìn, ghi nhớ không quên hay nói dễ hiểu hơn là tạo thành thói quen hay nghiệp tốt vì nghiệp là động lực chính dẫn dắt chúng sinh tái sanh trong các cảnh giới luân hồi. Cho nên bước đầu chúng ta phải nương nhờ vào sức mạnh của lòng tin (Tín lực) và của Chánh niệm (Niệm lực) để hành trì các Pháp kể trên. Càng hành trì Pháp, thì niềm tin và sự tiếp nhận Pháp (chân lý, sự thật) càng sâu sắc, ban đầu từ hiểu biết của ý thức, dần dần chuyển hóa đến nhận thức từ tiềm thức, và cuối cùng là sự thay đổi toàn bộ sinh mệnh.

CÔNG ĐỨC VÀ PHƯỚC ĐỨC KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?

công đức hay vô vi nghiệp là công phu tu học, tự soi chiếu bên trong hay gọi là chỉnh sửa thân tâm. Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người, v.v. Công đức có thể đoạn phiền não, có thể thay đổi vận mạng (Đức năng thắng số), chứng được Bồ đề, còn Phước đức thì không thể. Phước đức mang đến cho bạn phước báo, nhưng không thể đoạn phiền não, thay đổi vận mệnh, hay chứng Bồ Đề.

Thật ra Công đức không hề rời Phước đức vì làm những việc thiện như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người, v.v. mà không dính mắc hay mong cầu phước đức trời người thì chính là Công đức. Ngoài ra, mặc dù bạn không mong cầu, nhưng trong cuộc sống bạn cũng không thiếu bất cứ thứ gì vì trong Công đức có Phước đức, nhưng trong Phước đức không có Công đức.

Cũng như vậy, quả báo của sự thanh lọc nội tâm (làm cho tâm thanh tịnh) trong khi cúng dường thì sẽ tạo công đức. Nếu bạn cúng dường mà muốn có công đức thì không nên có những mong cầu lợi ích hưởng thụ cá nhân hay có những ý niệm như cúng dường cho Thầy mình, chùa mình, hay chùa mình thích, v.v. Nếu khởi những ý niệm này thì sự cúng dường của bạn chỉ tạo được Phước đức vì tâm của bạn bị vướng mắc, không thanh tịnh. Nếu bạn chỉ thích giúp đỡ hay đi giảng pháp ở những chùa quen hay hợp với mình, hoặc khi giảng pháp bạn thấy tự hào, tự mãn thì dù là bố thí Pháp cũng không có công đức mà chỉ tạo được chút phước đức mà thôi.

Nói tóm lại, Hữu lậu (asrava/impure) là những gì còn vướng mắc trong vòng nhân quả luân hồi, trong khi Vô lậu (anasrava/pure) là những gì vượt lên trên dòng nghiệp báo nhân quả và đưa đến Niết-bàn, giải thoát. Ví dụ, khi làm một việc thiện với tâm chấp ngã, mong cầu được đáp trả trở lại, như thế là bạn làm với cái tâm hữu lậu, tức là còn dính mắc vào cái tôi, cái của tôi, và cái tự ngã của tôi. Do vậy, khi gieo nhân hữu lậu, bạn sẽ đạt được quả hữu lậu. Tất nhiên, dầu bạn làm việc thiện, nhưng dòng năng lượng tâm thức vay trả, trả vay vẫn còn đó; và chính dòng tâm thức này là sự rò rỉ (lậu), nó tiếp tục lôi kéo bạn vào vòng nhân quả luân hồi. Trái lại, khi làm một việc thiện với tâm từ bi, hỷ xả, vô ngã, và vị tha thực thụ, như thế là bạn đã gieo nhân vô lậu, hướng đến xả ly và giải thoát. Các pháp môn tu tập vô lậu là Trì giới, Thiền định, và Trí tuệ

Chùa Ngàn Phật trong những năm qua đã nhận được sự cúng dường của Phật tử ở North Carolina và các tiểu bang khác. Có nhiều Phật tử dù ở xa và chưa có dịp đến chùa nhưng vẫn gởi tịnh tài cúng dường. Đây là một thí dụ về cúng dường với tâm thanh tịnh, không vướng mắc nên tạo được nhiều công đức, và dù không mong cầu nhưng trong Công đức đã có sẵn Phước đức.

CÔNG ĐỨC VÀ PHƯỚC ĐỨC CÓ PHẢI LÀ NGHIỆP KHÔNG?

Khi chúng ta làm gì với dụng ý cũng đều tạo ra nhân hay được gọi là nghiệp, vì vậy công đức và phước đức là những nhân lành hay nghiệp lành.

Tu tập cho mình và giúp người hiểu biết, giác ngộ, giải thoát, mà không mong cầu thì tạo ra những nghiệp Công đức vô lậu. Nghiệp này sẽ giúp chúng ta trên con đường giác ngộ, giải thoát khỏi các khổ của sanh tử, luân hồi. Trong nghiệp công đức cũng có Phước đức.

Giúp người và các chúng sanh khác bớt khổ, an vui, hạnh phúc, v.v. tạo ra nghiệp Phước đức hữu lậu. Nghiệp này giúp chúng ta có một đời sống an vui, hạnh phúc, và một tái sanh tốt đẹp đến các cõi trời, người. Cũng những việc phước đức này mà khi làm không có tâm mong cầu, thì cũng tạo được nghiệp công đức.

Phạm năm giới, mê tín dị đoan, làm người khác tối tăm, mê mờ, xúi dục, lường gạt người, v.v. tạo ra các nghiệp ác.

THẾ NÀO LÀ CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP?

Vì mục đích cao cả, rộng lớn của sự cúng dường là giúp cho Phật Pháp được trường tồn, để đưa chúng sinh ra khỏi khổ đau của sanh tử luân hồi, nên khi người Phật tử cúng dường Tam Bảo đúng Chánh Pháp thì lượng công đức đồng với Chánh pháp, nghĩa là công đức giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi đời đời, kiếp kiếp không mất. Tuy không mong cầu phước đức thế gian, nhưng người Phật tử cúng dường đúng Chánh Pháp sẽ thường có một đời sống an vui, hạnh phúc, và luôn gặp thuận duyên trên đường tu học và hộ trì Tam Bảo.

Nhưng thế nào là cúng dường bố thí đúng Chánh pháp? Một hôm vua Ba Tư Nặc hỏi Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con là hàng cư sĩ cúng dường bố thí thế nào cho đúng Chánh pháp?”. Ðức Phật đáp: “Cúng dường bố thí cho cá nhân hay tập thể, thì cá nhân hay tập thể đó phải thanh tịnh”. Chữ “thanh tịnh” cho cá nhân là để chỉ cho những người hiền lành, có đạo đức, không gian xảo, không lừa đảo, v.v… Còn “thanh tịnh” cho tập thể là để chỉ cho Tăng đoàn, những đoàn thể tu học như tu viện, chùa, đạo tràng, và cũng để chỉ cho chư Tăng Ni nghiêm trì giới luật, có đạo hạnh.

Ðức Phật dạy tiếp: “Nếu cúng dường bố thí không đúng cách thì cũng giống như đem hạt giống tốt gieo trồng trên đất chai, khô cằn thì hạt giống sẽ bị hư thối”. Chữ “hư, thối” ở đây có nghĩa là không được phước mà còn tổn phước.

Người Phật tử bố thí đúng cách (đúng Chánh pháp) không bao giờ cho suông mà phải như lý (như lý giải thoát, như lý Kinh, hay như lời dạy của chư Phật) để làm chủ tác ý (hướng tâm) của mình khi thực hành bố thí hay cúng dường thì mới có công đức. Nghĩa là nếu cúng dường cho một đoàn thể (tu viện, chùa, đạo tràng, v.v.), thì đoàn thể đó phải “thanh tịnh” (như lời Phật dạy ở trên) và tịnh tài cúng dường phải được dùng vào việc tu học và hoằng pháp lợi sanh. Nếu cúng dường cho một tu sĩ (tỳ kheo) thì tu sĩ này phải nghiêm trì giới luật, có đạo hạnh, và dùng tịnh tài vào việc tu học và hoằng pháp lợi sanh.

Là Phật tử, chúng ta tuyệt đối đừng cúng dường vì tà kiến, chấp trước như vì quyền lợi, cảm tình, sợ tội, v.v. Thí dụ như trong trường hợp chúng ta biết một vị tu sĩ phạm giới, sống phóng dật, không có đạo hạnh, mà cứ tôn sùng, cúng dường cho những tu sĩ này là chúng ta vô tình làm hại đạo Phật. Người Phật tử phải sáng suốt trong sự cúng dường bố thí cho đúng Chánh pháp. Ðừng nghĩ rằng, ai làm tội nấy chịu, mà phải thấy mình có trọng trách với mình, với các bạn đồng tu, với mọi người, và với Tam Bảo.

Khi giúp đỡ phương tiện cho các Pháp sư giảng Pháp, chúng ta phải ý thức nếu bố thí Pháp để dẫn người đến gần hơn với con đường giác ngộ thì mới có phước đức. Nếu Pháp sư giảng không đúng với Chánh Pháp, hoặc sai lạc Kinh giáo, thì có thể làm tín tâm của người nghe Pháp bị thối thất và có hại cho Phật Pháp. Nếu Phật tử tạo phương tiện phổ biến Pháp thí có tà kiến thì không những phước đức kém đi mà còn có thể tạo nghiệp xấu vì hại đến uy tín Tam Bảo.

Phật tử chúng ta thường hay cúng dường các Thầy có chức vụ lớn hoặc đã tu lâu. Thật ra cúng dường Tăng bảo là để chỉ cho sự cúng dường chư Tăng Ni hay Tăng đoàn là một đoàn thể hòa hợp và thanh tịnh. Vì vậy cúng dường chư Tăng, chư Ni là một hành động rất thù thắng. Phật Giáo Nguyên Thủy rất chú trọng vào việc cúng dường chư Tăng để hồi hướng công đức của mình cho những người thân quá cố. Tuy nhiên sự cúng dường của chúng ta có phước đức nhiều hay ít còn tùy thuận vào 1) Tâm của chúng ta có thanh tịnh, cung kính khi cúng dường không, 2) Tiền hay vật dụng cúng dường có thanh tịnh không, 3) Tăng đoàn mà chúng ta cúng dường có phải là một đoàn thể hòa hợp và thanh tịnh không, hay vị Tăng, Ni mà chúng ta cúng dường có nghiêm trì giới luật, có đạo hạnh không, và 4) Tiền cúng dường có được dùng cho việc tu học để hoằng Pháp lợi sanh hay không.

Theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ thì khi Tăng, Ni nhận sự cúng dường chân chính (đúng Chánh pháp) của Phật tử, tự nhiên thấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng. Làm sao tu hành tinh tấn? Làm sao truyền bá Chánh Pháp lợi ích chúng sinh? Để xứng đáng thọ nhận những thứ cúng dường của Phật tử, chỉ cần nỗ lực tu hành, cố gắng học tập để hiện tại và vị lai làm lợi ích chúng sinh. Nếu hiện đời, Tăng, Ni, không làm tròn hai việc này, có thể mai kia phải mang lông đội sừng để trả nợ tín thí. Biết như thế, hiểu như thế, Tăng, Ni làm sao dám lơ là trong việc tu hành học tập. Thế là, nhờ sự cúng dường chân chính của Phật tử thúc đẩy Tăng, Ni đã cố gắng càng cố gắng hơn trong nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của chính mình, nhờ vậy mà Phật Pháp được trường tồn, để đưa chúng sinh ra khỏi đau khổ mê lầm.

Đối với người Phật tử thì Phật dạy bố thí (cúng dường là một hình thức của bố thí) là cơ hội để cho chúng ta thực hành Bồ Tát đạo nghĩa là phát triển tâm từ bi bằng cách đem lợi ích cho người nhận và bồi đắp công đức cho sự giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi. Bố thí, cúng dường đúng Chánh pháp là hạnh tu hàng đầu trong Tứ nhiếp pháp gồm có Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự. Hạnh tu này là để khai mở trí tuệ, phát triến tâm từ bi và bồi đắp công đức vị tha và không để cho nghiệp tạo tác làm chủ hành động bố thí của mình. Tinh tấn thực hành bố thí thành một thói quen có hiệu năng chuyển hóa tâm thức từ căn bản vô minh như tham ái, ích kỷ, bỏn sẻn thành tuệ giác và tâm từ bi với mọi loài chúng sanh. Tuệ giác và từ bi giúp chúng ta không bị đọa lạc và là vốn liếng trên đường đi đến giác ngộ.  

Về cúng dường, tùy theo hoàn cảnh, căn cơ và hạnh nguyện của người Phật tử, cúng dường có thể chia thành ba trình độ dưới đây:

  • Phẩm vật cúng dường là cúng dường Tam Bảo những vật chất như nước, nhang, đèn, hoa quả, thực phẩm, thuốc men, áo quần, vật dụng, tịnh tài, v.v.
  • Kính tín cúng dường là cúng dường Tam Bảo tấm lòng thành kính và niềm tin vững chắc vào Phật Pháp. Phần kính tín cao hơn phẩm vật cúng dường.
  • Hạnh cúng dường là học hỏi, áp dụng giáo lý của Phật để hành động lợi ích cho chúng sanh. Đây là cúng dường cao quý nhất.

Khi cúng dường chúng ta thường hay cầu nguyện. Tuy đối tượng cầu nguyện có được lợi ích, nhưng đây chỉ là trợ duyên. Là người Phật tử, chúng ta ai cũng thường cầu nguyện nhưng muốn được lợi lạc thì chúng ta phải hiểu tính chất đạo đức của cầu nguyện tùy thuộc vào mục tiêu và dụng tâm đối với sự mong cầu. Nếu các ước mong của cầu nguyện hướng về tư lợi, tư hữu thì cầu nguyện vì tham. Ngược lại, cầu nguyện vì tính cách vị tha hướng đến phúc lợi và hạnh phúc của người khác là sự cầu nguyện mang tính cách thiện ích. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện cho mình, gia đình mình, người thân mình với tâm vị tha. Thí dụ chúng ta có thể cầu cho con mình đươc bình an, hạnh phúc. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta đừng nghĩ đứa con này là của mình mà phải hiểu rõ và nhìn thấu nó là một chúng sanh có nhân duyên với mình. Chúng ta có thể cầu nguyện cho mình được khỏe mạnh nhưng không phải để hưởng thụ mà để tinh tấn tu hành, hộ trì Tam Bảo, v.v.

Khi vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Sư Đạt Ma: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép Kinh, độ Tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?” Tổ Đạt Ma đáp: “Không có công đức”. Câu chuyện này thường được nhiều người kết luận là công đức không thể lấy việc thế gian (như bố thí, cúng dường, xây chùa, chép Kinh, độ Tăng) mà cầu được. Thật ra Tổ Đạt Ma trả lời như vậy là để độ cho vua Lương Võ Đế. Xét kỹ trong câu chuyện này, câu trả lời thật ra đã nằm sẵn trong câu hỏi của vua Lương Võ Đế: “Vậy có công đức gì không?”. Với câu hỏi này, thì vua Lương Võ Đế đã xây chùa, chép Kinh, độ Tăng là vì tâm tham cầu phước, và vì tâm tham này mà không có công đức chứ không phải cúng dường, xây chùa, chép Kinh, độ tăng là không có công đức. Khi người Phật tử như lý (lý vô lậu, giải thoát) mà tác ý cúng dường, xây chùa, chép Kinh, độ Tăng và thực hành những việc hoằng dương chánh pháp này trong Chánh niệm thì không những tạo được phước mà còn có công đức. Vì vậy có công đức hay không là do nơi chúng ta có biết dụng tâm để tịnh hóa dòng tâm thức tham, sân và si và có thực hành những việc này trong Chánh niệm hay không.

Bố thí hay cúng dường mà không biết dụng tâm như những thí dụ dưới đây là chúng ta để cho nghiệp quá khứ và các tập khí tạo tác chạy theo vọng tưởng và qua sự trả ơn, đền ơn, trả nợ, đòi nợ của luật nhân quả. Tuy có được chút phước đức trời người nhưng không tạo được công đức giác ngộ. Nếu tiếp tục chạy theo vọng tưởng nhất là trong lúc hưởng thụ những phước đức trời người này, thì sẽ dễ tạo nghiệp xấu và vì thiếu thí tuệ nên sẽ bị đọa lạc.

  • Bố thí, cúng dường vì tư lợi, hơn thua, khen chê, cầu danh, kiêu ngạo, v.v. Người Phật tử bố thí đúng Pháp không bao giờ cho suông mà phải như lý vô lậu, giải thoát làm chủ tác ý của mình khi thực hành bố thí.
  • Cúng dường vì nghe nói được phước rất nhiều. Cúng dường như vậy hàm chứa một sự mong cầu hưởng thụ cá nhân.
  • Cúng dường với tâm cầu về Cực lạc để hưởng thụ cá nhân, thay vì cầu về Cực Lạc để tiếp tục tu hành hóa độ chúng sanh. Cúng dường với tâm tham, không thanh tịnh, thì khó được vãng sanh về Tịnh Độ.
  • Không dám mong cầu gì hết vì có nghe giảng là cúng đường hoặc bố thí không mong cầu quả báo thì công đức vô lượng. Đây là không hiểu Pháp vì Phật luôn khuyên chúng ta là bố thí không nên cầu quả báo trời người mà phải cầu được giác ngộ ra khỏi biển khổ của sanh tử luân hồi.
  • Bố thí, cúng dường mà không suy nghĩ gì hết vì có học được chút ít về Tánh Không. Đây là sự lầm lẫn vô tâm bố thí với Tánh Không bố thí. Vô tâm bố thí là bố thí không có ý thức, còn Tánh Không bố thí là thấy các yếu tố tạo ra sự bố thí đều không có tự tánh. Nghĩa là đem trí tuệ Tánh Không của các Pháp áp dụng vào việc bố thí.
  • Cúng dường để trả công thí dụ như khi chúng ta thỉnh quý Thầy về nhà để tụng Kinh cầu an, cầu siêu, hay tụng đám rồi cúng dường quý Thầy nhưng trong tâm chúng ta coi đó như một hình thức trả công, hay trả ơn Thầy.
  • Vì làm theo người khác. Thí dụ như chúng ta cúng dường vì thấy bạn bè ai cũng làm mà mình không làm thì thấy ngại hoặc không yên tâm.
  • Vì bị bắt buộc. Thí dụ như chúng ta không muốn bố thí nhưng cũng phải giúp vì từ chối không được.
  • Vì kiêu mạn. Thí dụ như chúng ta thấy tự hào, tự mãn khi bố thí và cảm thấy vui vì thấy người khác nghèo khổ hoặc không bằng mình.
  • Chỉ cúng dường cho Thầy của mình, chùa của mình, hay pháp môn của mình, v.v. Bố thí, cúng dường cũng là một pháp tu của Bồ Tát để giúp chúng ta buông bỏ. Vì vậy muốn bố thí hay cúng dường có hiệu quả, người Phật tử phải dụng tâm buông bỏ và đừng có chấp trước.
  • Nói xấu, xúi dục với mục đích để Phật tử đừng đi lễ, cúng dường, hay giúp đỡ chùa hay đạo tràng mình không thích. Khẩu nghiệp này cũng chẳng khác nào như một hành động phá đường, phá cầu để cản trở người đi lễ Phật, hay cản không cho mang thực phẩm đến chùa. Đây là tạo nghiệp ác nên phải sám hối và cố gắng sửa đổi, tu tập nhiều hơn.
  • Không vui khi thấy người khác cúng dường hay giúp đỡ chùa hay Thầy mình không thích. Phật dạy chúng ta phải luôn khuyến khích, tán thán, khen ngợi làm cho người cúng dường sanh tâm hoan hỷ. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm có đoạn như sau: “Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thí thì nên khởi tâm tuỳ hỷ, phước báu tuỳ hỷ ngang với phước báu của kẻ bố thí không khác. Đây là việc rất dễ làm”. Tùy hỷ công đức cũng là một trong 10 hạnh nguyện của Đức Phổ Hiền Bồ Tát. Tuy nhiên đây nói về trường hợp của những người bần cùng, không có của bố thí. Thông thường, nếu có điều kiện, thì chúng ta cũng nên cúng dường trong khả năng và hoàn cảnh của mình chứ chỉ có tùy hỷ với tâm keo kiệt thì cũng tạo được phước báu, nhưng không nhiều.

Đời sống con người là một quá trình tạo nghiệp, trả nghiệp và hưởng nghiệp. Chúng ta không thể giác ngộ chỉ nhờ vào bố thí, nhưng thực hành bố thí như một Pháp tu là cách tạo ra cho mình một số nghiệp lành và vốn liếng công đức giác ngộ. Số vốn liếng này là hành trang giúp chúng ta có một tái sanh tốt dẹp và bồi đắp công đức cho sự giải thoát khỏi các khổ đau của sanh tử luân hồi. Song song với việc tu hạnh bố thí, chúng ta phải học hỏi và áp dụng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp phục, cảm hóa người đời phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật Pháp.

TẠI SAO PHẢI DỤNG TÂM KHI BỐ THÍ?

Dụng tâm bố thí nghĩa là khi bố thí mình phải hiểu và thấy rõ với Chánh niệm về tâm thức và việc mình đang làm. Học theo cái nhìn của Thiền tông thì hành động bố thí có thể được coi như chiếc xe, mà tâm là con trâu. Chiếc xe thì vô tri vô giác mà con trâu mới có tri giác và mình điều khiển được.

Tiến trình dụng tâm hay luyện tâm khi thực hành bố thí có thể được chia thành hai giai đoạn. Ở giai đoạn thứ nhất, chúng ta dụng tâm để phát triển tâm từ bi bằng cách đem lợi ích cho người nhận. Sau khi đã quen dụng tâm để phát triển tâm từ bi, chúng ta bước sang giai đoạn thứ hai là dụng tâm phát triển tâm đại bi để bồi đắp công đức giác ngộ. Tâm đại bi là tâm hiểu và thấy rõ với Chánh niệm sự khổ đau của mọi loài chúng sanh nên khi bố thí chúng ta không phân biệt, chấp trước, và luôn phát nguyện để cứu mình và chúng sanh ra khỏi sanh tử luân hồi.

Lúc đầu dụng tâm khi bố thí để phát triển tâm từ bi, phần lớn chúng ta cần phải tự mình trải qua hay nhìn thấy sự đau khổ của những người chung quanh ta thì mới cảm nhận được rõ ràng hơn thế nào là khổ. Khi thực hành bố thí chúng ta có nhiều cơ hội để thấy và chia sẻ nỗi thống khổ của con người trong xã hội và thực sự biết được những sự nghèo khổ, khốn khổ, cực khổ, cùng khổ của con người, và nhờ luôn dụng tâm như vậy nên tâm từ bi của chúng ta có điều kiện phát triển. Nếu chúng ta tiếp tục dụng tâm như  vậy, lần hồi mỗi khi trông thấy sự khổ đau của người khác thì mình thấy đau lòng và cảm thấy như tim mình co thắt lại. Sự đau lòng này là sự bùng dậy của tâm từ bi để thúc đẩy hành động bố thí của chúng ta. Từ đó nếu chúng ta tiếp tục khéo léo, mãnh liệt dụng tâm, thì thể dạng tâm thức vào lúc thực hành bố thí do những Tác ý từ bi bên trong tâm thức sẽ trực tiếp tạo ra nghiệp in đậm trên dòng tâm thức mình. Khi dụng tâm bố thí, chúng ta phải cố gắng đừng nghĩ mình là người bố thí ban ơn, giá trị của vật bố thí, và người nhận là kẻ chịu ơn thì tâm mới an lạc vì không khởi sanh các phiền não ô nhiễm.

Muốn tạo được công đức cho sự  giải thoát thì chúng ta phải dụng tâm dũng mãnh để phát triển tâm đại bi để tự cứu mình và chúng sanh ra khỏi sanh tử luân hồi. Chúng ta phải biết mọi sự trong cõi sinh tử luân hồi đều mang tính chất của khổ đau sinh, lão, bệnh, tử. Nếu khéo dụng tâm khi bố thí thì càng bố thí ta càng nhận thức được là chúng sanh, từ con người cho đến các sinh vật khác đều gánh chịu khổ đau và từ đó ta phát triển tâm đại bi với một ước vọng là giải thoát cho tất cả mọi chúng sinh, trong đó có cả ta, ra khỏi khổ đau. Cũng vậy, khi chúng ta cúng dường với một mục đích để giúp chư Tăng Ni tu học và hoằng Pháp lợi sanh, chúng ta có cơ hội để thấy sự lợi ích thiết thực của Phật Pháp, nên chúng ta phải dụng tâm học hỏi để phát triển trí tuệ và hồi hướng công đức để đưa chúng sanh đến đời sống an lạc, giải thoát.

Phật tử chúng ta khi bố thí thường chỉ nghĩ đến cúng dường vào những dịp lễ vía, nhưng muốn dụng tâm bố thí thành một thói quen thì chúng ta phải bố thí thường xuyên. Muốn bố thí thường xuyên không chán thì hành động bố thí phải được thúc đẩy bởi lòng từ bi và sự hiểu biết chân chánh. Ngoài ra chúng ta có rất nhiều cơ hội để thường xuyên thực hành bố thí nhưng vì chúng ta không để ý hoặc không biết mà thôi. Thí dụ như cúng dường Phật, Pháp, Tăng, phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, vợ chồng đối với nhau, bố thí khi làm việc, bố thí cho loài vật, v.v.

Căn bản của bố thí là buông xả. Vì vậy muốn dụng tâm bố thí (hay cúng dường) có hiệu quả, người Phật tử phải tập đừng có chấp trước. Thí dụ khi cúng dường người Phật tử đừng chấp đối tượng phải là Thầy của mình, chùa của mình, hay pháp môn của mình, v.v. Ngoài ra chúng ta phải tập đừng chấp trước vào việc bố thí của người khác. Thí dụ như mình không vui khi thấy một người bạn đạo cúng dường chùa khác mà không cúng dường chùa mình, hay không giúp Thầy mình mà đi giúp Thầy khác, v.v. Là người Phật tử, trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta cũng phải luôn tán thán khen ngợi làm cho người cúng dường sanh tâm hoan hỷ.

Một số người cho rằng khi họ bố thí, tài sản của họ sẽ suy kiệt, nhưng trên thực tế, suy kiệt đã nằm trong bản chất của tài sản. Bất kể ta có bố thí hay không bố thí, đến khi hội đủ nhân duyên thì tài sản của chúng ta sẽ phải suy kiệt, hoặc mất đi. Một số người đang sở hữu nhiều tài sản hiểu rằng nếu họ không làm gì trong lúc này thì rồi nó có thể cũng sẽ suy kiệt hoặc họ cũng không mang theo được khi chết, và vì vậy, họ tin rằng mình nên đầu tư tư vào việc bố thí trong lúc họ còn tỉnh táo này. Nghĩa là người này thấy được tài sản không bị mất bởi bố thí mà nó được chuyển hóa thành phước đức mà họ sẽ dùng được cho mai sau, kiếp sau, v.v.

Khi bố thí phải tập đừng chấp mình là người bố thí ban ơn, tức là chấp ngã, còn người nhận là kẻ chịu ơn, tức là chấp nhơn và tiền tài vật chất là vật bố thí tức là chấp pháp thì tâm an lạc vì không khởi sanh các phiền não ô nhiễm. Nếu chúng ta có làm nhiều Phật sự hay bố thí rất nhiều đi nữa nhưng dựa trên hình tướng và chấp trước thì phước đức rất ít và chúng ta cũng không thấy an lạc.

LÀM SAO ĐỂ ÁP DỤNG BỐ THÍ TRONG GIA ĐÌNH?

Muốn thực hành hạnh bố thí có kết quả tốt thì trước hết chúng ta phải bố thí hay giúp đỡ cho những người thân và gần gũi với chúng ta. Trong một gia đình, bất kỳ chúng ta ở vị trí nào, nếu chúng ta làm đúng với vai trò của vị trí đó như lời Phật dạy thì những việc làm đó sẽ giúp chúng ta nuôi dưỡng trí tuệ và từ bi. Nếu hiểu như vậy thì gia đình là môi trường để thực hành bố thí tốt nhất cho người Phật tử tại gia. Dưới đây là một đoạn tóm lược của Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigalovada) về các mối quan hệ gia đình để chúng ta thấy là hàng ngày chúng ta có rất nhiều cơ hội để thực hành Tài thí, Pháp thí và Vô Úy thí cho những người thân.

  • Con đối với cha mẹ – Nuôi dưỡng lại cha mẹ, làm bổn phận đối với cha mẹ, gìn giữ  gia đình và truyền thống, bảo vệ tài sản thừa tự, làm  tang lễ khi cha mẹ qua đời.
  • Cha mẹ đối với con – Ngăn chận con làm điều ác, khuyến khích con làm điều thiện, dạy con nghề nghiệp, cưới vợ  xứng  đáng  cho  con, đúng thời trao của thừa tự cho con.
  • Chồng đối với vợ – Kính trọng vợ, không bất kính với vợ, trung thành với vợ, giao quyền hành cho vợ, sắm đồ nữ trang cho vợ.
  • Vợ đối với chồng – Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình, khéo tiếp đón bà con, trung thành với chồng, khéo gìn giữ tài sản của chồng, khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Khi thực hành Tài thí, Pháp thí và Vô Úy thí cho những người thân thì gia đình sẽ hòa thuận, vui vẻ. Sự bố thí trong gia đình của chúng ta là làm cho người trong nhà và người ngoài phát tâm thì đó là cách bố thí tốt nhất.

Về phần vật chất thì sự bố thí của chúng ta sẽ không khác mấy với bổn phận làm con, làm cha, làm vợ, làm chồng, v.v., nhưng trên phương diện dụng tâm thì hoàn toàn khác biệt. Trước hết chúng ta phải có trí tuệ để thấy các chúng sanh này do nghiệp duyên sâu dày với chúng ta, có thể trước đây đã từng là cha, mẹ, ông, bà, v.v. của chúng ta, bây giờ gặp lại nhau đây và cùng tạm trú ở quả đất này với nhau trong thời gian vài chục năm rồi thì ai đi đường nấy. Khi giúp đỡ (bố thí) những người thân này, chúng ta phải vì lòng từ bi và dụng tâm tâm bình đẳng cũng như đừng mong cầu sự trả ơn mà hãy hồi hướng tất cả công đức bố thí cho pháp giới chúng sanh. Bố thí và hồi hướng được như vậy, giúp chúng ta phát triển tâm đại bi, nghĩa là tâm từ bi không phân biệt, và giảm thiểu được lòng tham ái của chúng ta với những người thân. Song song với việc bố thí, chúng ta nên lợi dụng cơ hội gần gũi và giúp đỡ những người thân để nhiếp phục, cảm hóa, và hướng dẫn họ phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật Pháp. Thực hành được như vậy thì không những chúng ta bố thí đúng Pháp mà còn làm tròn bổn phận của chúng ta đối với gia đình, quyến thuộc.

Khi trưởng thành thì ai cũng có một mái gia đình riêng. Dù cuộc sống chúng ta lúc nào cũng bận rộn và bị ảnh hưởng bởi môi trường sinh hoạt và hoàn cảnh chung quanh nên không gần gũi với nhau như trước, nhưng chúng ta lúc nào cũng phải cố gắng để thực hành bố thí cho anh chị em trong gia đình. Do nghiệp duyên của mỗi người, nên dù cùng cha cùng ṃẹ sinh ra nhưng trong anh chị em có người chúng ta thân hoặc là thường gần gũi hơn là những người khác. Đôi khi vì nghiệp tạo tác làm ô nhiễm tâm thức qua những sự lợi hại, hơn thua, khen chê, vinh nhục nên việc thực hành bố thí cho anh chị em trong gia đình bị trở ngại. Hiểu như vậy, nên chúng ta phải ý thức đây là do nghiệp duyên của mỗi người nên đừng vì vậy mà sanh tâm chán nản, không vui.

LÀM SAO ĐỂ PHỤNG DƯỠNG CHA MẸ ĐÚNG CHÁNH PHÁP?

Ruộng phước của sự phụng dưỡng cha mẹ là “ân điền”. Phật tử chúng ta đôi khi coi trọng việc cúng dường Tam Bảo và coi nhẹ bổn phận với cha mẹ. Chúng ta phải ý thức là nếu không có cha mẹ thì làm gì có mình và như vậy thì làm sao mình có được nhân duyên gần gũi hộ trì Tam Bảo. Ngoài ra chúng ta phải biết phước thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là  “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát và tu thập thiện nghiệp”. Vì vậy nếu thiếu phụng dưỡng cha mẹ mà chúng ta chỉ lo cúng dường, bố thí thì phước đức rất ít.  

Nếu chúng ta có phước duyên được phụng dưỡng cha mẹ, chúng ta phải lưu ý chăm lo, săn sóc cho cha mẹ luôn khoẻ mạnh, ăn các đồ ăn bổ dưỡng và dễ tiêu hóa, tránh nóng, lạnh, v.v. Người già thường cảm thấy buồn, cô đơn, tủi thân vì mình không có nhiều năng lực, quyền hạn như lúc trẻ, vì vậy chúng ta lúc nào cũng phải kính trọng và tạo điều kiện cho cha mẹ được gặp, hoặc qua điện thoại, faceTime, Skype với con cái và họ hàng, bạn bè để hàn huyên tâm sự. Ngoài ra chúng ta thỉnh thoảng cũng nên đưa cha mẹ đi ra ngoài cho khuây khỏa cũng như, nếu có điều kiện, đi thăm viếng các nơi, để cha mẹ có một cuộc sống buông xả, phóng khoáng, không để cho tham ái ưu bi khởi lên. Sau đó chúng ta phải tạo thuận duyên cho cha mẹ được nghe những lời giảng dạy của chư Tăng và giúp cơ hội cho cha mẹ bố thí và cúng dường để tăng trưởng thiện tâm. Chúng ta phải chăm sóc khi cha mẹ đau bệnh và lo cho cha mẹ khi qua đời. Người bệnh thường khó tính vì khổ thọ do thân đau. Người lớn tuổi lại càng khó tính hơn nên nuôi bệnh là một công việc vô cùng nặng nhọc. Nhưng dù có khó khăn nặng nhọc đến đâu cũng không đền đáp được công ơn cha mẹ và công đức phụng dưỡng cha mẹ thật không thể nghĩ bàn. Để chuẩn bị cho cha mẹ già có cái chết tỉnh thức, nhẹ nhàng, chúng ta có thể khuyên cha mẹ hàng ngày niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ, hoặc nhắc nhở về pháp vô thường, hoặc nhắc nhớ về những việc thiện mà cha mẹ đã làm cũng có thể thoát khỏi bốn cõi khổ. Khi cha mẹ qua đời, phải vì người chết mà tích phước, làm việc công đức như cúng dường Tam Bảo, phóng sanh, in Kinh, cứu giúp người nghèo khổ, v.v. Đem những công đức này hồi hướng cho cha mẹ thì họ sẽ được lợi ích thù thắng không gì sánh bằng. Gia đình nên chọn mời quý Thầy đạo hạnh chân chính đến tụng Kinh cầu siêu cho người chết. Toàn thể gia đình nên ăn chay, niệm Phật, làm các việc thiện lành, hồi hướng cho cha mẹ.

LÀM SAO ĐỂ LO CHO CON CÁI ĐÚNG CHÁNH PHÁP?

Theo luật nhân quả, thì con cái đến với chúng ta là để đòi nợ, trả nợ, báo ân, hoặc báo oán. Khi mình cho con cái một vật nhỏ như cây kim hay lớn và giá trị như một ngôi nhà, thì hành động cho này thường nằm trong sự đòi nợ, trả nợ, báo ân, báo oán theo luật nhân quả giữa hai người nên không tạo được công đức. Chúng ta tuy rất thương yêu và lo cho con cái nhưng, không nhiều thì ít, thường có những ý tưởng và hành động mang tính chất ích kỷ như thương con vì lúc nào cũng nghĩ nó là của mình; lo cho con đi học vì muốn nó học hành thật giỏi để mình được hãnh diện với bạn bè, sau này làm thật nhiều tiền và có thể lo cho mình khi về già; lo cho con lấy vợ hay chồng nhưng phải là người mình thích, v.v. Những tư tưởng và hành động ích kỷ này thường đưa chúng ta đến khổ đau trong cuộc sống và trong sanh tử luân hồi.

Muốn tạo công đức khi thực hành bố thí cho con cái, chúng ta phải có một kiến thức chân chánh, hiểu biết sáng suốt đúng theo chân lý thiện, ác, nhân, quả để thấy sự khác biệt giữa cái cho không có trí tuệ và bố thí với trí tuệ. Một người có trí tuệ khi lo cho con cái thường nghĩ mình và đứa con này có nhân duyên với nhau đã khéo gieo nhân quả trong tiền kiếp, nên kiếp này gặp nhau vì vậy mình phải hết lòng giúp đỡ nó. Mình phải lo cho con nó học thành tài để sau này giúp đời. Hơn thế nữa, mình phải hướng dẫn nó phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật Pháp. Chúng ta nên thường đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quí báu của đức Phật để tùy theo hoàn cảnh chỉ bày cho con mình. Nếu con chúng ta biết hiếu thảo với cha mẹ thì rất có thể nó gặp chúng ta trong kiếp này để trả nợ. Trong trường hợp con chúng ta cho tiền mà chúng ta không có nhu cầu chi dụng, thì hãy đem số tiền này bố thí hay cúng dường và hồi hướng công đức cho nó cùng khắp pháp giới chúng sanh. Nếu con chúng ta là một đứa con bất hiếu, phá của thì có thể nó đến với chúng ta để đòi những nợ cũ. Với con mắt trí tuệ, thì dù là đứa con bất hiếu hay có hiếu, chúng ta phải luôn có lòng từ bi và tâm bình đẳng đối với nó. Khi ta giúp cho con cái, ta cần phải suy xét với tâm từ bi về thời điểm và cách thức hỗ trợ cho nó. Thí dụ chúng ta có thể bỏ ra nhiều tiền để lo cho con học hành thành tài. Khi nó mới đi làm chúng ta có thể giúp nó mua nhà thay vì phải mướn nhà, v.v. Nếu chúng ta không giúp con cái khi nó cần, thì sau này mình có cho nó cùng số tiền đó cũng không có giá trị nhiều. Hơn nữa, số tiền này khi chết chúng ta cũng không mang theo được. Ta cần phải biết thế nào là thiện pháp và không bỏ qua thiện pháp. Khi lo cho con thì đừng mong cầu sự trả ơn mà hãy hồi hướng tất cả công đức cho pháp giới chúng sanh. Đối với con cái, chúng ta không nên có một thái độ áp chế quá vô lý của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ bình thản ôn hòa là thái độ thích nghi nhất của cha mẹ đối với con cái. Hàng ngày, chúng ta nhớ phát nguyện và hồi hướng. Chúng ta có thể cảm nhận được là tâm từ bi của chúng ta đang phát triển nhờ thực hành hạnh bố thí đúng Pháp cho con cái.

Chúng ta nên có một bàn thờ Phật tại nhà. Nếu chúng ta thỉnh thoảng mới đi chùa lễ Phật và trong nhà không có bàn thờ Phật, thì khi các con cháu lớn lên chúng không biết gia đình mình đạo gì. Nhưng nếu trong nhà có bàn thờ Phật thì chúng sẽ có ấn tượng trong đầu về đạo Phật và sau này chúng có thể sẽ tìm hiểu và tin theo. Có người quan niệm rằng tượng Phật Thích Ca chỉ tôn thờ ở trong chùa, còn ở nhà không trang nghiêm, ô uế nên không được thờ. Nếu chúng ta có chút căn bản về Phật Pháp và lý nhân quả nghiệp báo thì phải giảng nghĩa cho con chúng ta biết người Phật tử thờ Phật Thích Ca hoặc các vị Phật khác là để tôn thờ lễ bái, tự nhắc nhở việc làm lành lánh dữ, chứ không phải để cầu nguyện van xin.

LÀM SAO THỰC HÀNH BỐ THÍ VÔ ÚY?

Hộp Bắt Gián

Tăng Chi Bộ Kinh có nói về tám nguồn nước công đức là quy y Tam Bảo và luôn thận trọng giữ năm Giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa nghiện ngập) là mang lại sự an vui cho tất cả chúng sinh chung quanh mình. Khi chúng ta quy y Tam Bảo và luôn giữ năm giới và ý thức từng hành động của mình hầu mang lại sự an toàn và không sợ hãi (vô uý thí) cho các chúng sinh khác, thì đây là sự bố thí rất thù thắng. Như vậy, quy y Tam Bảo và giữ giới là bố thí. Ngoài ra, từ bỏ những việc làm tổn hại người khác, bảo vệ người khác khỏi hiểm nguy, và tha thứ cũng được coi là vô úy thí.

Người Phật tử ăn chay là để tôn trọng sự sống, nuôi dưỡng tâm từ bi với muôn loài và tránh quả báo sát hại. Nếu chưa ăn chay trường được thì chúng ta nên luôn tâm niệm tìm cách giảm thiểu tối đa việc sát sanh. Nên biết rằng, tâm Phật là từ bi. Khi chúng ta ăn chay và nuôi dưỡng lòng từ bi thì tâm ta với tâm Phật hợp nhau, chư Phật hoan hỷ thì tự nhiên dễ có sự cảm ứng đạo giao, việc bố thí, cúng dường, học Phật tự nhiên dễ dàng thành tựu.

Các loài vật nhỏ trong nhà như dán hoặc kiến, dù biết là chúng có nhân duyên với mình nhưng vì vấn đề vệ sinh, chúng ta không thể bố thí cho chúng. Ngoài ra chúng ta phải giữ nhà thật sạch sẽ để chúng không kiếm ăn trong nhà và bớt sanh sản. Vì lòng từ bi, nếu hoàn cảnh cho phép, chúng ta nên bắt chúng để thả ra ngoài sân chứ không nên giết chúng. Thí dụ như khi bắt một con dán, trước khi thả nó ra sân, chúng ta có thể niệm Phật và cầu nguyện cho nó kiếp sau không còn phải làm thân súc vật, luôn được gần Phật Pháp và được Thiện tri thức hướng dẫn tu hành tinh tấn vãng sanh Tịnh Độ, hay không bị sanh vào ba đường ác, v.v. Làm được như vậy là chúng ta bố thí Pháp và thí Vô Úy  cho những con vật đáng thương này, cũng như tạo cơ hội cho chúng được kết duyên với Tam Bảo.

Phật Giáo Tây Tạng FPMT (Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition, tạm dịch là Tổ Chức Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa) có dùng một cái hộp nhỏ bằng giấy bìa phía trước ở phần trên có nắp đậy lại được và phần dưới để hở như một cái xuổng. Hộp này cũng dễ làm. Chỉ cần xúc con gián đang chạy dưới sàn rồi dùng ngón tay đè nắp hộp lại là xong. Nếu khó bắt thì chúng ta có thể dùng chổi quét có tác dụng làm con gián bị lật ngửa nên rất dễ bắt. Lama Zopa Rinpoche là vị Thầy hướng dẫn tinh thần của FPMT. Tổ chức này có 164 Trung Tâm Tu Học Phật Pháp ở 40 quốc gia trên thế giới, trong đó có 23 Trung Tâm ở Mỹ (https://www.chuanganphat.org/nhung-yeu-to-thanh-cong-cua-to-chuc-phat-giao-tay-tang-fpmt-tai hai-ngoai) Có một số Trung Tâm xin được giết dán vì vấn đề vệ sinh, nhưng Lama Zopa Rinpoche không cho phép bất cứ Trung Tâm nào trong tổ chức FPMT được giết dán.

Chúng ta nên phóng sanh đúng thời, đúng đối tượng. Đúng thời và đúng đối tượng là thời gian vô tình chúng ta gặp một con vật đang bị lưới, bị câu, bị bắt thì ngay đó chúng ta xin mua con vật đó để phóng sanh. Đó là đúng giờ giấc và đối tượng nhân quả giữa ta và con vật. Nếu xem xét trong nhân quả thì ta và con vật có nhân duyên với nhau đã khéo gieo nhân quả trong tiền kiếp, nên kiếp này gặp nhau trong hoạn nạn. Trước khi thả con vật đó, chúng ta nên quy y Tam Bảo và cầu nguyện cho nó. Như vậy là chúng ta bố thí Pháp và thí Vô Úy cũng như tạo cơ hội cho chúng được kết duyên với Tam Bảo. Nếu thấy thuận tiện, chúng ta cũng nên nói cho người thợ săn hay người câu cá biết là chúng ta mua những con vật này để phóng sanh cũng như ý nghĩa của sự phóng sanh để cho họ có cơ hội kết duyên với Tam Bảo. 

XIN CHO BIẾT THÊM VỀ CÁC CƠ HỘI BỐ THÍ?

BỐ THÍ CHO NGƯỜI NGHÈO – Cái khổ của con người không giới hạn mà sự giúp đỡ vật chất chỉ có giá trị nhất thời, rồi khổ vẫn hoàn khổ. Bên cạnh sự trợ giúp bằng vật chất, ta cần giúp mọi người có một hiểu biết chân chánh về khổ và làm thế nào để thoát khổ. Khi bố thí cho người nghèo, nếu có điều kiện, chúng ta nên hỏi xem họ có muốn nhận một cuốn sách nhỏ nói về căn bản Phật Pháp hay một bài giảng về những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Bát Chánh Đạo, v.v. Nếu giáo pháp căn bản của đức Phật được những người nghèo khổ hiểu và áp dụng vào cuộc sống của họ, thì cái khổ sẽ được hoá giải bớt đi và đem lại sự tin yêu cho cuộc sống. Ngoài ra chúng ta cũng đã gieo vào tâm thức họ một cái nhân giải thoát. Vì họ đã từng sống trong cảnh nghèo khổ nên sau này, khi đầy đủ nhân duyên, họ sẽ cố gắng tìm hiểu, học hỏi, áp dụng để hầu thoát khỏi bể khổ sanh tử luân hồi.

Chúng ta ngày nay có nhiều phương tiện gởi tiền giúp đỡ những người nghèo ở Việt Nam, Ấn Độ, Phi Châu và nhiều nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên nếu chúng ta không cẩn thận tìm hiểu và lựa chọn những phương tiện có uy tín để bố thí thì tiền bố thí của chúng ta không khéo có thể sẽ bị lọt vào tay chính quyền địa phương hoặc những người lợi dụng lòng tốt của chúng ta. Có nhiều người quan niệm là khi bố thí là mình có phước còn ai lợi dụng làm việc xấu thì họ có tội. Quan niệm này cần phải sửa đổi vì chúng ta phải hiểu là “công” bố thí của chúng ta nếu có mang lại được lợi ích cho người nhận thí thì mới được gọi là “đức” hoặc phước đức. Chúng ta còn phải ý thức là nếu tiền bố thí của chúng ta lọt vào tay người xấu thì chúng ta vô tình đang kết duyên với họ và giúp họ phương tiện tạo nghiệp xấu. 

BỐ THÍ KHI LÀM VIỆC – Nghề nghiệp tốt nhất để thực hành hạnh bố thí là những nghề tạo cơ hội cho chúng ta bố thí. Thí dụ như nghề bác sĩ, nha sĩ, y tá, dược sĩ, thầy giáo, làm cầu, làm đường, xây nhà, lái xe, v.v. đều là những nghề tạo phương tiện cho chúng ta thực hành bố thí. Nếu chúng ta có phước duyên được làm những nghề này mà không biết dụng tâm bố thí thì uống lắm. Biết dụng tâm là chúng ta phải lấy từ bi làm tác ý chính và trong khi làm việc chúng ta phải luôn ý thức là chúng ta đang mang lại lợi ích và hạnh phúc cho con người chứ đừng chỉ nghĩ mình làm để lãnh lương. Trước khi đi làm và sau khi đi làm về, chúng ta nhớ phát nguyện và hồi hướng. Nếu chúng ta thực hành đúng Pháp thì chúng ta có thể cảm nhận được là tâm từ bi của chúng ta đang phát triển nhờ thực hành hạnh bố thí trong khi chúng ta làm việc.

BIẾT ƠN VÀ TRẢ ƠN – Đức Phật có dạy “Người biết ơn và đền ơn dù cách xa ta ngàn dặm nhưng vẫn đang đứng hầu bên cạnh ta. Người không biết ơn và đền ơn, dầu đứng hầu bên cạnh ta vẫn cách xa ngàn dặm.” Người Phật tử phải biết ơn và luôn tìm cách trả ơn. Được như vậy mới có phước đức. Ai trong chúng ta cũng đã thọ ơn cha mẹ, anh chị em, quyến thuộc, thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước. Trong Phật Pháp thì chúng ta thọ ơn Tam Bảo và ơn Thầy Tổ. Nếu chúng ta không đền đáp những ân nghĩa mà mình đã nhận thì khó thành công trên đường tu tập và sự cúng dường, bố thí của chúng ta vì vậy cũng không được nhiều công đức. Ngoài ra muốn được an lạc thì chúng ta phải sống cho thuận với luật nhân quả nghĩa là muốn được điều gì thì trước hết chúng ta phải làm được điều đó. Do đó chúng ta sẽ khó có an lạc và hạnh phúc nếu chính bản thân mình không biết ơn và tìm cách trả ơn, nhưng lại luôn mong muốn con cái phải có hiếu và người khác phải đối tốt với mình. 

NHỮNG CƠ HỘI BỐ THÍ KHÁC – Chúng ta có rất nhiều cơ hội để thực hành bố thí trong cuộc sống hàng ngày như tham gia vào những hội đoàn từ thiện trong khu vực của mình, làm công quả ở chùa, gia nhập vào những ban hộ niệm, ban xã hội, tham gia các hội phụ huynh học sinh, bố thí cho các loài vật như chim, sóc, v.v. Ngoài ra chúng ta lúc nào cũng có thể bố thí những thứ dưới đây:

  • Nhan thí – Bố thí nụ cười.
  • Ngôn thí – Bố thí ái ngữ, nói lời hay.
  • Tâm thí – Bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn.
  • Nhãn thí – Bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ.
  • Thân thí – Bố thí hành động nhân ái.
  • Tọa thí – Bố thí nhường chỗ cho người cần.

Phòng thí – Bố thí lòng bao dung.

TẠI SAO PHẢI PHÁT NGUYỆN VÀ HỒI HƯỚNG?

Người Phật tử hiểu rõ đạo lý không cầu nguyện lợi lạc cho bản thân mình, gia đình mình, quốc gia mình, mà phải biết phát nguyện để mở rộng tấm lòng hướng đến lợi ích của người khác và tất cả chúng sanh. Tình cảm vị kỷ và mang tính giới hạn của “cầu nguyện” đã được tình thương của “phát nguyện” thay thế. Phát nguyện giác ngộ để tự độ. Phát nguyện hồi hướng công đức cho tha nhân và chúng sanh là độ tha. Ðây là hai đặc tính thay thế hoàn toàn những cầu nguyện và ước muốn có tính cách hạn cuộc.

Hồi hướng công đức là chuyển phần công đức, chuyển năng lượng công đức, hay hiến tặng công đức của bạn cho người khác với mục đích tăng trưởng thiện duyên, trải rộng tâm từ, cầu mong cho chúng sanh (cả mình và người) đều thoát ly khổ não và thành tựu tâm Bồ-đề. Trong đạo Phật, sau các khóa lễ hay tụng niệm hằng ngày đều có phát nguyện hồi hướng công đức cho tự thân và tha nhân cũng như cho tất cả muôn loài chúng sanh. Đây là cách thức thực tập trải rộng lòng từ mang ý nghĩa vị tha của người Phật tử.

Điều quan trọng người Phật tử phải biết là cùng một hành động bố thí, người thí, vật thí, và người nhận thí mà có quả báo khác nhau đó là do lòng chí thành, tâm phát nguyện và hồi hướng mà ra. Khi ta hết lòng ham muốn và quyết chí đạt cho được mục đích thì gọi là nguyện, còn hồi hướng là gom góp tất cả để đặt vào một chổ. Nếu ta bố thí mà không biết phát nguyện và hồi hướng thì uổng lắm. Mỗi lần bố thí ta phải dụng tâm để phát nguyện, ý thức việc mình làm và sau cùng thì hồi hướng.

Nếu không phát nguyện trước khi bố thí và hồi hướng sau khi bố thí được thì chúng ta cũng có thể phát nguyện vào buổi sáng và hồi hướng vào buổi chiều trước bàn Phật. Nếu không phát nguyện và hồi hướng bằng lời được thì chúng ta phát mguyên và hồi hướng thầm trong lòng cũng được. Chúng ta có thể học theo những bài phát nguyện và hồi hướng ngắn ở trong các bài Kinh nhật tụng để phát nguyện và hồi hướng theo tâm nguyện và theo pháp môn của mình. Điều quan trọng là chúng ta phải có một niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo và chúng ta phải chí thành tha thiết khi phát nguyện và hồi hướng.

THẾ NÀO LÀ TÙY HỶ CÔNG ĐỨC?

Kinh Tăng Nhất A Hàm có đoạn như sau: “Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thí thì nên khởi tâm tuỳ hỷ, phước báu tuỳ hỷ ngang với phước báu của kẻ bố thí không khác. Ấy là việc rất dễ làm.” Tuy nhiên đây nói về trường hợp của những người bần cùng, không có của bố thí. Thông thường, nếu có điều kiện, thì chúng ta cũng nên cúng dường trong khả năng và hoàn cảnh của mình chứ chỉ có tùy hỷ với tâm keo kiệt thì cũng tạo được phước báu, nhưng rất ít. Tùy hỷ công đức cũng là một trong 10 hạnh nguyện của Đức Phổ Hiền Bồ Tát, và Tùy Hỷ Công Đức là Phẩm thứ 18 trong Kinh Pháp Hoa. Vì vậy khi thấy người khác bố thí ta nên hoan hỷ tán thán khen ngợi, làm cho người đang bố thí sanh tâm hoan hỷ. Nếu như họ cần đến sự giúp đỡ của mình, thì nên phát nguyện đem sức của mình, nhân duyên của mình trợ giúp cho họ làm việc bố thí. Nếu thực hành Pháp tùy hỷ công đức của người khác được như vậy thì mình sẽ được tăng phước, gieo duyên với nghiệp lành, kết duyên với Tam Bảo và gặp nhiều thuận duyên trong việc tu hành.

Hạnh tùy hỷ nói suông thì dễ, nhưng khó thực hành vì tâm thức của chúng ta còn chất chứa quá nhiều tập khí tham lam, ganh ghét, đố kỵ, v.v. Khi chúng ta biết tinh tấn hoan hỷ với những việc làm tốt đẹp của người khác, dù rằng điều đó ta có khả năng làm được hoặc không làm được, thì đó là ta khéo biết tu hạnh Tùy hỷ công đức.

LẤY TIỀN PHI PHÁP ĐỂ CÚNG DƯỜNG CÓ ĐƯỢC PHƯỚC KHÔNG?

Trước hết, nghiệp tốt hay xấu không dựa trên tiêu chuẩn đạo đức hay luật pháp nhưng dựa theo sự khổ đau có thể gây nên của tâm trí (dukkha). Theo định nghĩa này, một hành động tốt là một hành động giải thoát tâm trí khỏi khổ đau, và một hành động xấu là một hành động dẫn tới khổ đau cho tâm trí. Một hành động không đem đến sự khổ đau cho tâm trí (không tốt không xấu) không phải là nghiệp, không tạo nghiệp gọi là vô ký. (xin xem phần giải đáp câu hỏi NGHIỆP LÀ GÌ?).

Thứ hai, một việc làm được cho là phi pháp hay hợp pháp còn tùy thuộc vào thời gian và địa điểm. Thí dụ như ở Mỹ có những điều bây giờ gọi là phi pháp nhưng trước đây thì không như mua bán người hay bắt người làm nô lệ, v.v., hoặc những gì bị coi là phi pháp ở một tiểu bang thì chưa chắc bị coi là phi pháp ở một tiểu bang khác, hay ở một quốc gia khác.

Thứ ba là phải tùy theo hoàn cảnh lúc cúng dường. Thí dụ như có người trước đây làm việc “phi pháp” nhưng bây giờ hối hận không làm những việc đó nữa và lấy tiền họ có được trước đây để cúng dường. Trường hợp này được phước. Nhưng trong một trường hợp khác như một người quen làm việc “phi pháp” nhưng lại sợ tội nên đem tiền cúng dường. Trong trường hợp này, người cúng dường dù với tà kiến và với tâm không thanh tịnh, nhưng theo luật nhân quả vẫn được phước. Tuy nhiên song song với phước cúng dường, người này vẫn phải trả những nghiệp xấu, ác bởi những việc làm “phi pháp” của họ.  

LÀM SAO ĐỂ BIẾT AI LÀ THIỆN TRI THỨC CỦA MÌNH?

Thiện tri thức, cũng gọi là thiện hữu, đạo hữu, là danh từ chỉ một người bạn đạo. Thiện tri thức có ba hạng:

  • Giáo thọ thiện tri thức tức là bậc Thầy dẫn dắt, giảng dạy Chánh Pháp cho ta.
  • Đồng hạnh thiện tri thức là những người cùng một lý tưởng, cùng có chí nguyện tu hành, cùng mong cầu giải thoát giác ngộ.
  • Ngoại hộ thiện tri thức là những người bảo hộ cho ta được yên ổn, được có đủ điều kiện tốt để ta hành đạo.

Trong tiến trình tu học, ngoài Giáo thọ Thiện tri thức, Phật tử chúng ta thường không biết, không để ý, hay không biết trân quý những Đồng hạnh và Ngoại hộ Thiện tri thức của mình.

Thiện tri thức là người thường giúp đỡ, nhắc nhở, và tạo điều kiện cho chúng ta tu học. Họ thường nói lời chân thật vì vậy đôi khi họ nói ra những điều mà chúng ta không muốn nghe. Tại sao vậy? Vì tính tham (như ham danh) nên chúng ta chỉ thích nghe người ta khen mình, và vì tính sân nên chúng ta thường không ưa hay không muốn nghe ai nói lỗi của mình, v.v. Chúng ta phải hiểu là thiện tri thức nói lỗi của chúng ta vì muốn giúp chúng ta và vì họ biết chúng ta đang không biết được lỗi lầm của mình. Dù có tu học, nhưng chúng ta vẫn thường bị ảnh hưởng bởi những tập khí khó bỏ của tham và sân, thí dụ như khi nghe một bài giảng nói về những hành động có thể tạo nghiệp xấu giống như việc mình đang làm hay đụng chạm đến tự ái của mình, thì không muốn nghe tiếp. Là Phật tử, đúng ra, chúng ta phải hiểu, biết ơn, và cảm kích những người nhắc nhở hay nói lỗi của chúng ta. Thật ra điều này nói thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Người ta thường giận và không ưa những người nói lỗi của mình. Đôi khi chúng ta không thích những người tuy giúp mình nhưng lại giỏi hơn hay được nhiều người biết đến hơn mình. Đây cũng là do ảnh hưởng khó bỏ của tập khí tham (vì tham mới có ganh tỵ). Người thiếu phước là người không muốn gần gũi những Thiện tri thức của mình.

Trong cuộc sống, chúng ta gặp rất nhiều người đến với chúng ta vì những mục đích của họ, đến khi đạt được mục đích rồi, hay không nhờ được chúng ta nữa, thì họ sẵn lòng bỏ chúng ta mà đi. Những người này vì muốn đạt được mục đích nên họ thường sẵn sàng luồn cúi, khen ngợi, và ca tụng chúng ta để chúng ta ưa thích họ, để họ lợi dụng. Vì tính tham, và những tập khí xấu, nên chúng ta thường thích giao tiếp với những người này, và vì vậy tâm tham của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng dẫn dắt chúng ta trở nên ngạo mạn và tạo nhiều nghiệp xấu, nhưng chúng ta hoàn toàn không biết.

Muốn gặp hay nhận ra được Thiện tri thức thì chúng ta phải tinh tấn tu học cho thân tâm được thanh tịnh, và khi nhân duyên đầy đủ thì chúng ta sẽ ưa gần gũi những Thiện tri thức. Nếu chúng ta tin sâu nhân quả, hiểu giáo lý và tinh tấn tu tập thì chúng ta sẽ có rất nhiều Thiện tri thức vì, với tâm thanh tịnh, ai cũng là Thiện tri thức của mình. Kể cả những người lợi dụng và tìm cách hại mình vì họ đang tạo cơ hội cho mình thực hành hạnh Bồ Tát. Đây là tinh thần của Kinh Pháp Hoa, nhất là Phẩm ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA. Đối với giáo lý Nguyên Thủy phân biệt thiện ác, thì Đề Bà Đạt Đa là người ác thực. Nhưng quan niệm Đại thừa nhìn sự vật cả hai mặt, thấy trong thiện có ác và trong ác có thiện. Cuối cùng kết hợp được hai phần thiện ác trong một thể thống nhất gọi là bất nhị pháp môn hay đỉnh cao của tinh thần Pháp Hoa.

NGHIỆP LÀ GÌ?

Nghiệp tiếng Phạn là karma, tiếng Pali là kamma có nghĩa là “làm hay hành động”. Khái niệm nghiệp đã có tại Ấn Độ trước khi đạo Phật xuất hiện. Trong đạo Phật, nghiệp có những đặc tính dưới đây:

  • Thứ nhất, đó phải là một hành động có chủ ý như đức Phật dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ: “Này các tỳ kheo! Chính Tư tác (Tác ý tư tâm sở – cetana) là cái mà ta gọi là nghiệp. Bởi vì qua Tư tác, người ta hành động bằng thân, khẩu, ý…”. Tư tác có chức năng điều khiển tâm thức (citta) trong những hành động tốt, xấu, hoặc vô ký, và như vậy đồng nghĩa với nghiệp, Như vậy, một hành động vô tình, vô ý không phải là nghiệp.
  • Như đức Phật dạy ở trên, nghiệp là hành động chứ không phải là kết quả của hành động tạo nghiệp như chúng ta thường nghĩ. Chúng ta không nên hiểu nghiệp như hậu quả của một hành động mà người ta phải chịu đựng. Thí dụ như khi bị mất một số tiền lớn, người ta thường tự an ủi là mình đang phải trả nghiệp (trả số tiền bị mất này). Điều này không đúng với định nghĩa của nghiệp trong đạo Phật, bởi vì nghiệp chính là hành động chứ không phải là kết quả của nó.
  • Nghiệp tốt hay xấu không dựa lên tiêu chuẩn đạo đức hay luật pháp nhưng dựa theo sự khổ đau có thể gây nên của tâm trí (dukkha). Theo định nghĩa này, một hành động tốt là một hành động giải thoát tâm trí khỏi khổ đau, và một hành động xấu là một hành động dẫn tới khổ đau cho tâm trí. Một hành động không đem đến sự khổ đau cho tâm trí (không tốt không xấu) không phải là nghiệp, không tạo nghiệp gọi là vô ký. Thí dụ như một người lừa dối người khác để lấy được một số tiền. Trả nghiệp không phải là trả lại số tiền này mà phải trả cái khổ trong tâm trí của người bị mất tiền. Hơn nữa, thí dụ như nếu vì số tiền này mà họ không chữa bịnh được nên bị tàn tật cả đời thì trả nghiệp đây là trả sự khổ đau cả đời của người này và những thân nhân đau khổ vì họ bị tàn tật, v.v. Khi trả nghiệp không có nghĩa là phải trả cho người bị mất tiền, mà trả bằng sự khổ đau tương xứng, và có khi phải trả ở một cảnh giới khác như súc sanh, địa ngục, hay ngạ quỷ, v.v. Cũng vậy, nếu ta giúp đỡ thành lập một ngôi chùa hay một chương trình tu học để gieo hạt giống giải thoát (diệt khổ) đến với mọi người, nhất là những người chưa biết đến đạo Phật, thì công đức của sự bố thí pháp này rất lớn vì nó có thể đem lợi lạc cho nhiều người và cho nhiều thế hệ.

Vì nghiệp dựa theo sự khổ đau có thể gây nên của tâm trí nên với người có tâm địa hẹp hòi không tu tập thì sự tạo tác của một nghiệp ác nhỏ cũng đủ làm người đó rất khổ sở. Nhưng với một người có tu tập với tâm địa rộng lớn thì sự tạo tác của một nghiệp nhân ác nhỏ sẽ không ảnh hưởng nhiều với họ, bởi nghiệp nhỏ này không đủ sức chi phối thiện tâm và làm lệch lạc cái thấy biết về nhân quả nghiệp báo của người có tâm địa rộng lớn.

Sự điều hành của nghiệp có thể được thấy qua qui luật nhân quả và lý duyên khởi. Nghĩa là mỗi nguyên nhân (nghiệp) sẽ đưa tới một kết quả tương xứng dưới sự ảnh hưởng của những yếu tố trợ duyên.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHUYỂN NGHIỆP?

Tất cả những tư tưởng, hành động, lời nói của chúng ta đều bị ảnh hưởng và sự thúc đẩy của nghiệp lực mà chúng ta đã huân tập từ vô thỉ đến nay. Là một chúng sanh ở Dục giới, nghiệp lực luôn được xuất hiện khởi đầu bằng một sự ham muốn thâm trầm hay mãnh liệt như muốn làm gì, muốn đi đâu, muốn thương ai, muốn giúp ai, muốn lợi dụng ai, muốn hại ai, v.v. Cái muốn này là một năng lực rất vi tế, và qua sự vận hành của tâm thức, nó có thể, nhờ những trợ duyên, chuyển thành năng lực mạnh hơn trong tâm ta như ham muốn, giận, ganh tỵ, sợ hãi, lo lắng, v.v.

Trong cuộc sống, nếu chúng ta chỉ làm mọi việc theo ý muốn của mình mà không suy nghĩ thì chúng ta đang bị nghiệp dẫn. Vì căn bản của nghiệp là tham, sân, si nên nghiệp lực thường luôn dẫn chúng ta tạo thêm nhiều nghiệp xấu thỏa mãn sự ham muốn và vì vậy chúng ta sẽ chìm đắm trong sanh tử luân hồi và khó có được cơ hội có lại thân người sau khi chết.

Khi có đầy đủ những yếu tố trợ duyên, thì nghiệp quá khứ của mình sẽ tạo tác để trở thành năng lực của sự ham muốn. Vì chúng ta có cùng cộng nghiệp sanh ra ở dục giới, nên năng lực chính của nghiệp là sự ham muốn của chúng ta. Nếu muốn mà được thỏa mãn, thì chúng ta vừa sợ mất và lại vừa muốn thêm, và sẽ không bao giờ thấy đủ nên khổ; nếu muốn mà không được thỏa mãn thì chúng ta sinh ra sân hận và khổ, v.v. Đây đều là những nhân khổ trong cuộc sống, vì vậy chúng ta phải tinh tấn tu học để chuyển nghiệp và phải luôn nhắc nhở mình là: “Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió. Ngoảnh lại cùng trong bể khổ thôi!”.

Phật giáo tuy chủ trương mỗi người là chủ nhân và thừa tự của nghiệp, nhưng quyết không phải là nô lệ của nghiệp. Nhờ tu tập mà chúng ta hiểu rõ nghiệp và cơ chế vận hành của nghiệp, nên người Phật tử có thể chuyển nghiệp quá khứ hoặc làm cho ảnh hưởng của nó nó suy yếu lần. Tu không phải là để đi tìm một cái gì xa vời mà là để chuyển cái nghiệp của mình từ xấu thành tốt, tức là chuyển hóa tâm, và đặc biệt những tác ý của mình. Trong Kinh, một người tạo ra các nghiệp ác nếu thật thà hối lỗi, cải tà quy chánh, tích cực làm điều thiện lành, dần dần những nghiệp thiện đó sẽ có khả năng chuyển hóa những nghiệp ác cũ trước đây.

Nếu chúng ta muốn tích cực chuyển nghiệp thì chúng ta phải luôn tỉnh giác và có khả năng nhận thức được những ham muốn của mình khi nó vừa khởi lên. Khi nhận thức được nghiệp hay sự ham muốn, thì chúng ta nhờ hiểu giáo lý và biết như lý giải thoát (không vướng mắc) để tác ý trước bất cứ một hành động nào thì chúng ta đang tích cực chuyển nghiệp trong từng giây phút. Thật ra đây không phải là một việc khó làm nhưng chúng ta phải kiên trì huân tập thành một thói quen. Khởi đầu từ những ham muốn thô dễ nhận biết, sau đó khi đã thuần thục thì đến những ham muốn vi tế khó nhận biết nếu không có định lực. Từ những tác ý dễ cho đến những tác ý cần phải có nghị lực dũng mãnh như tác ý ngừng uống rượu hay dùng ma túy, v.v. Nếu chúng ta lỡ để cho nghiệp dẫn đến một hành động xấu nào đó, thì chúng ta phải tập cảm thấy hổ thẹn với chính mình mà sám hối. Dù tu bất cứ pháp môn nào, chúng ta cũng phải tích cực giữ gìn năm giới, thực hành lục độ vạn hạnh, và các công đức khác để chúng ta luôn được tỉnh giác, tinh tấn, đủ nghị lực, gặp nhiều thuận duyên để có thể chuyển những nghiệp xấu, ác thành những hành động thiện đưa đến an vui, hạnh phúc cho mình và cho những người quanh mình.

Nếu có hoàn cảnh, chúng ta nên thực tập thiền Chánh niệm (xin xem phần trả lời câu hỏi LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ CHÁNH NIỆM?) để giúp chúng ta luôn tỉnh giác và có khả năng nhận thức được những ham muốn của mình dù thâm trầm khi nó vừa khởi lên, và huân tập những hành động tích cực chuyển nghiệp cho thuần thục trở thành thói quen, phản xạ tự nhiên, hễ nói là nói lời thiện, làm thì làm việc thiện, nghĩ thì nghĩ điều thiện.

CẬN TỬ NGHIỆP CÓ ẢNH HƯỞNG GÌ ĐẾN SỰ TÃI SANH?

Xưa kia, ngài Ma Ha Nam là em bà con chú bác với đức Phật cũng đã hỏi Đức Phật câu này vì ông nghĩ nếu một hôm nào đó, bất thần xảy ra tai nạn, ông chết bất đắc kỳ tử, như vậy, thì thần thức ông sẽ sanh về đâu hay có bị đọa không?

Đức Phật không trả lời thẳng câu hỏi của ông, mà đức Phật hỏi lại ông:

– Nầy Ma Ha Nam, giả như có một cái cây mà nó đã nghiêng sẵn, bỗng một hôm có người đến cưa, thì cây đó ngã về đâu?

– Thưa Thế Tôn, cây nghiêng chiều nào, khi cưa thân cây sẽ ngã theo chiều đó.

Phật dạy: “Cũng vậy, hàng ngày ông thường tạo nghiệp lành, khi chết thì ông sẽ theo nghiệp lành mà tái sanh vào cõi lành. Ngược lại, nếu người nào hàng ngày tạo nghiệp ác, thì khi chết sẽ tái sanh vào cõi ác. Không phải chết bất đắc kỳ tử là sẽ bị đọa”. Khi một người chết, thần thức sẽ theo nghiệp lực thiện hoặc ác mà sanh vào cõi lành hay cõi dữ.

Căn cứ theo lời Phật dạy cho ông Ma Ha Nam ở trong Kinh A Hàm, thì chúng ta  cứ tinh tấn tích cực tu tập Tứ chánh cần (tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh, tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh, tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sanh, tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sanh) chứ đừng lo sợ nếu lỡ bị chết bất đắc kỳ tử không biết có được sanh về cảnh lành hay không. Nếu có đầy đủ nhân duyên thì khi mình chết có người, hộ niệm nhắc nhở, giúp đỡ nhưng đây là việc chúng ta không ai định trước được.

PHÓNG SANH CÓ LÀM GIẢM BỚT NGHIỆP SÁT SANH KHÔNG?

Theo luật nhân quả thì phóng sanh là nghiệp thiện và sát sanh là nghiệp xấu. Vì nghiệp là hành động chứ không phải là kết quả của hành động tạo nghiệp như chúng ta thường nghĩ (xin xem phần giải đáp câu hỏi NGHIỆP LÀ GÌ?). Vì vậy, một hành động thiện (nghiệp thiện) không làm giảm bớt một hành động ác (ác nghiệp) được.

Vì nghiệp dựa theo sự khổ đau có thể gây nên của tâm trí nên với người có tâm địa hẹp hòi không tu tập thì sự tạo tác (hay trả nghiệp) của nghiệp sát sanh có thể làm người đó rất khổ sở, và có khi phải trả nghiệp ở một cảnh giới khác như súc sanh hay địa ngục.

Tuy nhiên, cũng vì nghiệp dựa theo sự khổ đau có thể gây nên của tâm trí nên với một người có tu tập với tâm địa rộng lớn và luôn làm các việc thiện như phóng sanh thì sự tạo tác trước đây của một nghiệp nhân ác sẽ không ảnh hưởng nhiều với họ, bởi sự tạo tác (trả nghiệp) này không đủ sức chi phối thiện tâm và làm lệch lạc cái thấy biết về nhân quả nghiệp báo của họ.

Đứng trên phương diện hành động tạo nghiệp thì phóng sanh không làm giảm bớt nghiệp sát sanh, nhưng đứng trên phương diện sự đau khổ do nghiệp tạo tác hay trả nghiệp, thì tâm bi với hành động phóng sanh sẽ làm giảm bớt sự đau khổ do sự tạo tác hay trả nghiệp của nghiệp sát sanh.

SÁM HỐI CÓ TIÊU NGHIỆP ĐƯỢC KHÔNG?

Sám hối là ăn năn hối cải và hổ thẹn về những tội lỗi đã làm, và hứa sẽ sửa đổi không làm nữa. Theo luật nhân quả thì những gì bạn đã gieo trồng trong quá khứ, khi có đầy đủ điều kiện nó sẽ trổ quả. Vì vậy sám hối không thể làm tiêu các nghiệp trong quá khứ, nhưng nó có thể chuyển hóa nghiệp lực của mình qua hai lĩnh vực là không tạo thêm nghiệp xấu ác và vun trồng các công đức lành. Với người có tâm địa hẹp hòi thì một nghiệp ác nhỏ khi phải trả cũng đủ làm người đó khổ sở. Nhưng với một người có tu tập với tâm địa rộng lớn một nghiệp nhân ác nhỏ sẽ không có ảnh hưởng lớn, bởi nó không đủ sức chi phối thiện tâm và ảnh hưởng đến cái thấy biết về nhân quả nghiệp báo của họ vì vậy người có tu học thường mong được trả nghiệp chứ không sợ phải trả nghiệp.

Khi một người sám hối với một tâm chí thành, với một lòng tha thiết, xấu hổ những lỗi đã làm, quả quyết không tái phạm, thì người này không còn tội lỗi nào mà chẳng chuyển hóa được. Dù có tạo tội bao nhiêu, họ vẫn là người tốt trong tương lai và đáng được kính trọng.

Phát lồ là vạch trần những tội lỗi mình đã làm phơi bày trước bậc đức hạnh để thành tâm sám hối. Giá trị căn bản ở đây là hổ thẹn và cầu tiến là những động cơ chính yếu trong việc sám hối. Vì hổ thẹn và cầu tiến chúng ta mới sám hối, sau khi sám hối dứt khoát không tái phạm gây tạo nữa. Trọng tâm của sám hối là ở chỗ này.

Trên đường tu hành, nếu chúng ta thấy chướng nhiều thuận ít, hoặc gặp toàn những trở ngại như thân thể bệnh hoạn ngăn trở sự tu, chúng ta nên đến trước hình tượng Phật, Bồ-tát thành tâm sám hối. Sám hối có nhiều cách như niệm Phật, lạy Phật, tụng Kinh sám hối, lạy sám hối, tự phát tâm sám hối,v.v. Với lòng thiết tha tâm chân thành, chúng ta đảnh lễ Phật, Bồ-tát, quì gối chí thành phát lên những lời chí thiết sám hối và hứa nguyện, cầu Phật, Bồ-tát chứng minh. Bởi lòng thành khẩn thiết tha này, nên sám hối tội lỗi chóng sạch. Lời văn sám hối những nghiệp chướng cũ thu gọn trong bốn câu: “Con xưa đã tạo bao ác nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, từ thân miệng ý phát sinh ra, tất cả con nay xin sám hối”

Người Phật tử phải có Chánh kiến về sám hối chứ đừng tiếp tục tạo tội rồi sau đó theo thông lệ chiều mười bốn và chiều ba mươi hàng tháng đến chùa lạy sám hối Hồng Danh rồi sau đó cảm thấy yên tâm là những tội của mình vừa tạo đã được tiêu diệt.

LÀM SAO CHUYỂN HÓA TẬP KHÍ?

“Tập” là gom lại, “Khí” là hơi hướm còn tồn đọng lại. Tập khí là những hơi hướm tồn đọng gom lại thành những chủng tử từ nhiều đời trong tâm thức chúng ta, và khi đầy đủ nhân duyên chúng sẽ kết cấu với nhau để tạo ra một xung lượng (lực nhân ᴠới khoảng thời gian nó tác dụng) dẫn ta đi theo nó. Cho nên nói đến tập khí là nói đến những cái gì sâu kín bên trong chúng ta, rất khó bỏ khó trừ. Có người bỏ ác làm lành một thời gian rất dài, nhưng bất thần ngày nọ họ trở về làm những chuyện xấu như trước đây. Đây là do tập khí dẫn dắt, lôi kéo, mà đương sự không có đủ năng lực để đối kháng chống trả lại. Bởi thế nên cuối cùng đành phải quay lại con đường xấu ác ngày xưa mình đã bỏ đi. Có hai loại tập khí là tập khí tích cực (thiện) và tập khí tiêu cực (bất thiện), nhưng hầu như các tập khí bất thiện là thứ được huân tập nhanh hơn.

Tập khí, qua nhiều đời, kết tập thành những chủng sâu dầy. Đối với các bậc Đại thánh, các Ngài đã thành tựu chánh giác mà tập khí cũ còn chưa hết, chưa hoàn toàn dứt sạch huống chi là chúng ta. Trả hết nghiệp rồi đừng huân nghiệp mới nữa, là một cách trừ tập khí. Nhưng muốn tích cực hóa giải tập khí sâu dày thì chúng ta phải công phu miên mật – luôn có Chánh niệm, tỉnh giác để phát hiện được tập khí của mình, và phải dũng mãnh như lý tác ý mới hóa giải được tập khí. Nói thì giản dị nhưng khi thực hành đòi hỏi phải cố gắng, kiên trì trong thời gian dài mới có hiệu quả.

THẤT BỒ ĐỀ PHẦN LÀ GÌ?

Thất Bồ Đề Phần là bẩy yếu tố giác ngộ thường được gọi là Bảy Giác Chi (Bảy Chi Phần Dẫn Đến Giác Ngộ):

  • Niệm giác chi có công năng tiêu diệt tà niệm và vọng tâm.
  • Trạch Pháp giác chi là phân tích qua suy luận để biết pháp nào là thật và pháp nào là giả.
  • Tinh tấn giác chi là nổ lực, kiên trì để vượt qua mọi thử thách.
  • Hỷ giác chi là hoan hỷ giúp cho hành giả phấn khởi trên đường tu học.
  • Khinh An giác chi là nhẹ nhàng và an tịnh, hóa giải lửa phiền não để tâm không còn giao động.
  • Định giác chi giúp hành giả phát triển trí tuệ thấy rõ được bản chất chân thật của đối tượng.
  • Xả giác chi là tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh.

Bảy yếu tố giác ngộ trên đều để đoạn các tà kiến, chướng ngại khi hành trì, nên chúng đều là Huệ Lực. Vì Thất Giác Chi là những yếu tố để đạt đến Bồ Ðề, nên trong Phẩm Bồ Tát Tu Trì của Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy tất cả Bồ Tát phải nên áp dụng bảy thứ giác pháp này: “Lại nữa A Nan! Trong cõi nước đó, tất cả Bồ Tát, …. theo chỗ Phật hành, thất giác thánh đạo,”

TRẠCH PHÁP LÀ GÌ?

Trạch pháp là một trong bẩy yếu tố giác ngộ thường được gọi là Thất Bồ Đề Phần hay Bảy Giác Chi (Bảy Chi Phần Dẫn Đến Giác Ngộ).

Trạch pháp, được coi là đồng nhất với Chánh kiến và trí tuệ, là một trong những sự tu tập có thể dẫn chúng ta đến chỗ giải thoát khỏi mọi khổ đau. Khi một hành giả trạch pháp là đang phân tích qua suy luận để hiểu được những lời dạy của Đức Phật.

Khi thực tập thiền Minh Sát hay còn được gọi là thiền Tứ Niệm Xứ, tuệ giác được phát từ từ qua tiến trình của Trạch Pháp là chiêm quan, thẩm sát và phân tích các hiện tượng một cách cẩn thận để cho hành giả có khả năng thấy biết những ảo tưởng vốn tồn tại lâu đời do sự nhận thức không đúng về thế gian và về bản thân.

Trạch Pháp cũng được áp dụng để lựa chọn pháp môn và phương pháp tu hành. Trạch pháp là dùng trí huệ đưa đến giải thoát để lựa chọn pháp lành và tránh pháp dữ để tu trì. Khi trí huệ chưa được khai mở, người Phật tử phải hiểu và biết áp dụng Như Lý Tác Ý (xin xem NHƯ LÝ TÁC Ý LÀ GÌ VÀ LÀM SAO ĐỂ ÁP DỤNG?). Trong sự tu tập, nhất là trong thời điểm này, nếu ta không có trí phân biệt chánh tà, tất phải lầm lạc hay mê tín.

Phật dạy nước bốn biển chỉ có một vị mặn; cũng vậy, pháp Phật tuy có rất nhiều pháp môn nhưng chỉ có một vị giải thoát mà thôi. Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bực của kỹ năng truyền thông, phong trào học Phật được phát triển rộng. Tuy nhiên, các bài giảng trên mạng thường có nội dung tổng quát và thiếu những chi tiết cần thiết để Phật tử tu học và áp dụng. Một số giảng sư đã triển khai và so sánh sự vi diệu và lợi ích của pháp môn mình đang tu với pháp môn khác làm cho người nghe Pháp có thể sinh ra chấp trước hơn thua. Vì vậy, người Phật tử phải dũng mãnh phá bỏ thành kiến và phải có con mắt Trạch pháp để khéo léo chọn pháp môn thích hợp với mình chứ đừng nghe ai nói gì cũng tin mà không tự chứng nghiệm.

Trong bài pháp nổi tiếng Đức Phật thuyết cho những người dân Kalamas, ngài nói, “Các ngươi chớ để bị đánh lừa bởi lời đồn hay truyền thống …cũng chớ để bị đánh lừa vì lòng kính trọng một bậc sa-môn (một vị Tỳ kheo). Nhưng này các Kalamas, khi nào các ngươi tự mình biết: ‘Những pháp này là không lợi ích, những pháp này là đáng khiển trách,’…lúc đó các ngươi hãy vứt bỏ chúng… Nhưng nếu bất cứ lúc nào, các ngươi tự mình biết là những pháp này…khi thực hành và thọ trì dẫn đến lợi ích và an lạc thời, này các Kalamas, các ngươi hãy thọ trì những pháp ấy, an trú trong những pháp ấy.”

NHƯ LÝ TÁC Ý LÀ GÌ VÀ LÀM SAO ĐỂ ÁP DỤNG?

Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật. Như lý tác ý là một pháp môn tu tập liên hệ đến sự phát triển tâm thức để thực nghiệm và nhận rõ các pháp đều do duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã. Như lý tác ý là một trong bốn yếu tố làm tăng trưởng, sung mãn tuệ giác. Bốn yếu tố đó là: “Thân cận bạn lành, nghe chánh pháp, như lý tác ý, và sống theo pháp.”

Tác ý hay Tác ý chú tâm (manasikara) có nghĩa là hướng tâm, như bánh lái của con thuyền; nếu hướng tâm đúng, Như lý tác ý (yonisomanasikara), thì con thuyền sẽ đi đúng hướng; nếu hướng tâm sai, phi Như lý tác ý (ayonisomanasikara), thì con thuyền sẽ đi lạc.

Manasikara nó có nghĩa là khởi tâm đến, hướng tâm đến – nên nó đồng nghĩa với tác ý. Nhưng khi khởi tâm, hướng tâm đã thuần thục sẽ phát sanh Chú tâm, giai đọan này tương đương với tầm và tứ tâm sở. Nhưng khi Chú tâm thuần thục, nó sẽ dẫn đến Nhất tâm. Vậy cho nên khi nói Manasikàra – là hàm nghĩa, nó đã tự tác ý, qua tầm, qua tứ, Chú tâm để đi đến nhất tâm. Như thế, Chú tâm đưa đến nhất tâm. (Tương ưng kinh – Chương 22)

Chúng ta thường không làm chủ được mình vì sống theo phản ứng bản năng và Kinh nghiệm của thế giới hiện tượng hơn là việc quản lý tâm ý và hành vi. Vì bản năng là tác động của nghiệp, nên phản ứng theo bản năng là bị nghiệp dẫn và nếu không kiềm chế hay hóa giải thì đễ tạo thêm nghiệp xấu ác.

Thế nào là Như lý tác ý hay tâm đặt đúng hướng? Đó là khởi nghĩ về mọi sự vật và hiện tượng đúng như bản chất của chúng, nghĩa là duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã.

Sự phát triển Như lý tác ý là tiến trình phát triển nhận thức của một chúng sinh, có thể chia thành 4 mức độ như sau:

  • Lúc mới thực tập Như lý tác ý, chúng ta nhìn mọi sự vật và hiện tượng qua sự hiểu biết, khái niệm, kiến thức về các giáo lý: duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã. Ở giai đoạn này chúng ta mới chỉ hiểu Nghĩa qua khái niệm, kiến thức và hoạt động của lý trí như tư duy, suy luận, so lường, phán đoán trên hiện tượng, v.v., chứ chưa thấy được thực tánh (lý) của sự vật và hiện tượng (pháp) ngay nơi thực tại. Tuy mới hiểu nghĩa hay có khái niệm, kiến thức về duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã, chúng ta cũng sẽ tác ý đúng hướng, và thấy được sự lợi lạc của những tác ý này.
  • Sau khi thực tập Như lý tác ý một thời gian (ngắn hay dài tùy theo căn cơ và sự tinh tấn), chúng lần lần bắt đầu Thấy được Lý qua trực nhận ban đầu: nhận được Lý (sự thật – bản chất tự nhiên của pháp) qua thể nghiệm của thấy biết (tri kiến) trực tiếp và trung thực bản chất của pháp ngay nơi thực tại. Ở giai đoạn này, chúng ta có thể bắt đầu quản lý được tâm ý và hành vi của mình một cách tự nhiên không gượng ép. Việc tu học của chúng ta dễ tiến bộ hơn, như hiểu được lý Kinh, không chấp trước, không thành kiến, dễ khởi và giữ được Chánh niệm, tinh tấn hơn trong các pháp hành như ngồi thiền, tụng Kinh, trì chú, v.v.
  • Thông suốt Lý qua thể nghiệm Sự: khi đã nhận ra sự thật (Lý) tức tiếp xúc với thực tánh pháp thì ngay đó bắt đầu thể nghiệm thực tại chân đế, xóa dần sự ngăn cách giữa người Kinh nghiệm (bản ngã) và đối tượng được Kinh nghiệm.
  • Lý và Sự không hai: khi sống trọn vẹn trong thực tánh chân đế thì không còn người Kinh nghiệm và đối tượng được Kinh nghiệm, tức là ngay nơi thực tại hiện tiền thân-tâm-cảnh Lý và Sự không hai. Dầu sống giữa tục đế vẫn tuỳ duyên thuận pháp, không còn xa rời thực tánh chân đế.

Khi hành thiền, Như lý tác ý giúp hành giả kiểm soát các triền cái (tham lam, sân hận, trảo cử, hôn trầm, nghi ngờ). Trong khi hành thiền, Như lý tác ý và hai giác chi Trạch pháp (thẩm sát) và Niệm được áp dụng để hành giả tư duy liên tục để duy trì việc kiểm soát tâm, tạo nên đối tượng nơi tâm, và tác ý đúng cách.

Đức Phật có dạy “Này các tỳ kheo, người có Như lý tác ý các thiện pháp chưa sanh sẽ sanh, các bất thiện đã sanh sẽ diệt.” Và “Này các tỳ kheo, người có Như lý tác ý các Pháp giác chi chưa sanh sẽ sanh, các Pháp giác chi đã sanh sẽ đưa đến Pháp hành (Bhavana) được tròn đủ.”

Khi tu tập, người Phật tử có thể Như lý tác ý chọn một pháp môn hợp với mình để tu tập mà không chỉ dựa vào ý kiến hay Kinh nghiệm của người khác. Trong khi tu tập chúng ta cũng cần áp dụng Như lý tác ý để chọn cho mình những trợ hạnh cần thiết. Nếu đi sâu hơn, chúng ta cũng có thể nhờ Như lý tác ý để biết được mình cần phải bồi đắp thêm những phẩm hạnh nào trong 37 Phẩm trợ đạo, v.v. Chúng ta phải nhận diện, cẩn thận và khéo léo chuyển hóa những thành kiến của chúng ta vì chúng là những chướng ngại cho tiến trình tu học.                   

Trong cuộc sống, người Phật tử có thể khéo léo thực tập Như lý tác ý để có thể nhìn các pháp đúng như lời Phật dạy và để kiểm soát hành động của mình. Nhờ vậy, một người có học tập và hành Như lý tác ý thì tâm thức lần lần giảm tham, sân, si và ý thức sinh khởi theo hướng đưa đến chánh kiến; và có khả năng tác ý khiến các thiện pháp sinh khởi và tăng trưởng.

Thí dụ, khi hành trì Như lý tác ý, nghĩa là nhận diện các pháp là duyên sanh, vô thường, khổ, vô ngã, thì dù có thấy một người khả ái hoặc không khả ái, tâm tư mình cũng không dao động, không rơi vào tham ái đối với sắc khả ái, không sinh khởi bực phiền đối với sắc không khả ái, không có những suy nghĩ hay hành động sai lầm đưa đến hại mình và hại người.

Khi một người chưa có nhân duyên tu tập Như lý tác ý hay tu học giáo pháp của Phật thường bị nghiệp dẫn hoặc có tập khí nặng về tham, sân, si thì thường tác ý theo chiều hướng đưa đến tà kiến hoặc tác ý theo một cách khiến các pháp bất thiện phát sinh và tăng trưởng. Kinh Phật gọi đó là Phi Như lý tác ý hay tâm đặt sai hướng.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT VÀ TRÁNH XA MÊ TÍN?

Chánh tín đặt căn bản trên trí tuệ đối lại với vô minh là căn bản của mê tín. Niềm tin hợp lý, thuận với luật nhân quả, hợp với lý nhân duyên, và theo đúng Chánh Pháp là chánh tín. Những niềm tin không phải là chánh tín đều phải dựa vào cảm tính (tin cái gì mình muốn tin) là mê tín vì căn bản của cảm tính là tham, sân, si. Vì cảm tính thể hiện bản ngã, cái tôi của mình, nên chúng ta thường có khuynh hướng bảo vệ những niềm tin dựa vào cảm tính này như một hình thức tự vệ để mình được yên tâm. 

Muốn nhận biết mê tín thì chúng ta phải có chánh tín. Mà muốn có chánh tín thì chúng ta phải tu học để hiểu và thực hành lời Phật dạy. Tuy nhiên, Phật tử chúng ta vì phong tục, tập quán, nhiều người chỉ thích đi chùa, cúng dường, làm công quả, nhưng không thích học giáo lý cho nên tuy đạo Phật là đạo giác ngộ nhưng cũng còn nhiều mê tín. Hiện nay có rất nhiều bài giảng trên mạng với mục đích cảnh tỉnh người Phật tử chúng ta về tệ trạng mê tín. Một trong những bài viết được nhiều người biết đến là bài MÊ TÍN, CHÁNH TÍN của Hòa thượng Thích Thanh Từ (https://thuvienhoasen.org/me-tin-chanh-tin). Trong bài này, Hòa Thượng nêu ra những tệ trạng mê tín như đồng cốt, lịch số, sao hạn, coi tay, xem tướng, xin xăm, bói quẻ, cúng sao, xem hướng, đốt giấy tiền vàng mã.

Mê tín rất bất lợi cho việc hoằng Pháp ở Mỹ. Nếu những sinh hoạt Phật Pháp của người Việt chúng ta có những tập quán không hợp lý (với xã hội Mỹ), không thuận với luật nhân quả, không hợp với lý nhân duyên và không theo đúng Chánh Pháp, thì chúng ta khó có thể giảng cho giới trẻ và người Mỹ hiểu về sự tu tập, hành trì của mình và vì vậy khó gây được niềm tin ở họ. Như đã trình bày trong phần trả lời câu hỏi LÀM SAO ĐỂ HOẰNG DƯƠNG PHẬT PHÁP TẠI MỸ?, Phật pháp luôn đầy đủ “Thể, Tướng, Dụng”. Thể (hay thể tánh) là bản chất nội hàm, Tướng là hình dáng bên ngoài, Dụng là lợi ích của mỗi pháp. Nặng về Tướng và Dụng thì dễ bị rơi vào mê tín và xa dần với phẩm chất giải thoát của Thể, nên Thể không còn hiệu dụng nữa. Giới trẻ và người Mỹ, có khuynh hướng khoa học thực dụng, thường đến với đạo Phật vì Thể (thể tánh giải thoát của các Pháp) và Dụng. Vì vậy muốn hoằng dương Phật Pháp ở Mỹ thì chúng ta phải thay đổi phương pháp giáo dục chú trọng vào Thể và Dụng.

Trong tiến trình tu học của một cá nhân, Chánh tín phải được huân tập qua sự trải nghiệm và kiểm chứng rõ ràng (xin xem phần giải đáp câu hỏi TRẠCH PHÁP LÀ GÌ? và NHƯ LÝ TÁC Ý LÀ GÌ VÀ LÀM SAO ĐỂ ÁP DỤNG?). Chánh tín thuộc về trí tuệ. Trí tuệ đây là hiểu Phật hay hiểu lý Kinh. Vì hiểu Phật nên mình mới tin; vì hiểu những gì mình tin, nên niềm tin của mình mới dũng mãnh và tạo được Tín lực (một trong Ngũ lực: Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ). Nếu chúng ta thực hành được như vậy thì chúng ta có Chánh tín.

Nếu chúng ta không hiểu lắm cái điều mình tin, thì chúng ta cũng không có tin lắm cái điều mình hiểu, nên thiếu Tín lực và vì vậy chúng ta dễ bị rơi vào mê tín mà không hay biết. Thí dụ thứ nhất: Chúng ta có niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng và luôn nghĩ mình có Chánh tín, nhưng chúng ta tin Phật có thể ban phước giáng họa, và Tăng là một thần tượng cá nhân (thay vì Tăng đoàn là một đoàn thể thanh tịnh ) mà chúng ta, vì sợ tội, nên phải tuyệt đối kính trọng và nghe theo thì đây là mê tín vì niềm tin này không thuận với luật nhân quả và theo đúng Chánh Pháp (xin xem thêm bài “Ảnh Hưởng Của Tập Quán Nghiệp Khi Đến Chùa” (https://www.chuanganphat.org/anh-huong-cua-tap-quan-nghiep-khi-den-chua/)

Thí dụ thứ hai: Chúng ta luôn cố gắng tu tập nhưng lại luôn tin vào những lời bàn, lời giảng mà không có sự kiểm chứng như pháp này dễ tu dễ đạt, pháp tu kia khó tu khó đạt, chỉ nên cúng dường trong phạm vi pháp môn, chùa, đạo tràng của mình thôi, chỉ nên tụng những Kinh này và tuyệt đối đừng tụng những Kinh khác vì như vậy là không có chuyên tu, v.v. Điều tai hại hơn nữa là không những chúng ta tin mà không tư duy, kiểm chứng mà còn coi đây là một sự hiểu biết để dùng nó đi khuyên người khác, và vì quá sốt sắng nên chúng ta tạo nhiều nghiệp xấu mà luôn nghĩ là mình có Chánh tín.

Thí dụ thứ ba: Sau một thời gian đi chùa, chúng ta cảm thấy mình trở nên quan trọng hơn trước và đã tạo được nhiều công đức như ngồi thiền được lâu, tụng Kinh hay hơn nhiều người, không bỏ buổi thọ Bát nào, cúng dường nhiều hơn người khác, v.v. Đây chính là mê tín vì học Phật là để được giải thoát chứ không phải càng ngày càng vướng mắc, tự mãn. Tu học cũng ví như uống thuốc để trị bệnh tham, sân, si. Tại sao chúng ta lại cảm thấy tự mãn khi thấy mình siêng năng uống nhiều thuốc hơn người khác?

PHƯƠNG TIỆN LÀ GÌ?

Sau khi chứng ngộ đạo quả Niết bàn, trở thành Bậc Chánh Đẳng Giác, bởi vì cảnh giới chứng ngộ của Đức Phật vượt lên trên mọi tư duy và diễn đạt bằng ngôn ngữ, nên Đức Phật dùng một phương pháp gọi là Phương tiện thiện xảo (upaya-kauslya), có tính cách năng động và tùy hoàn cảnh, để diễn đạt cho chúng ta với những trình độ khác nhau hiểu được Giáo pháp của Ngài. Từ phương tiện sau đó được nói đến trong Kinh Pháp Hoa, Duy Ma Cật và Thiện Phương Tiện.

Trong các sinh hoạt Phật Pháp, phương tiện thường được dùng để tiếp cận quần chúng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, và hướng họ đến đời sống thánh thiện. Phật tử Việt Nam thường nặng về tình cảm và có nhu cầu tín ngưỡng cao. Ở Mỹ, người Việt lớn tuổi thường đến với Đạo Phật qua những nhu cầu tín ngưỡng như cầu an, cầu siêu, ma chay, v.v. Vì vậy, đối với họ, một tu sĩ cần phải đáp ứng được nhu cầu lễ nghi cúng tế hơn là trình độ giáo lý của chư Tăng, Ni. Giới trẻ thường không muốn đến chùa vì không biết đủ tiếng Việt để tham dự các buổi tụng Kinh hay hiểu được các bài giảng, cũng như không thích hợp với những lễ nghi xưa cũ. xin xem bài viết: NHU CẦU BẢO TỒN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI MỸ (https://www.chuanganphat.org/gop-y-ve-nhu-cau-bao-ton-phat-giao-vn-tai-my). Trong trường hợp này, chúng ta đã không tạo được phương tiện để diễn đạt cho giới trẻ và người Mỹ hiểu được Phật Pháp. Đây là một điều đáng tiếc

Vấn đề là ở chỗ ta xem nghi lễ là phương tiện độ sanh hay là cứu cánh. Nếu ta coi nghi lễ là phương tiện độ sanh, thì nghi lễ là sự biểu hiện lòng tôn kính và tin tưởng của người con Phật đối với Tam Bảo. Nhờ tôn kính nơi Tam Bảo, nhu cầu tín ngưỡng được nâng lên và lần lần ta tạo điều kiện cho họ học hỏi giáo lý, và áp dụng những giáo lý đã học trong cuộc sống.  Nếu ta xem nghi lễ là cứu cánh, là mục đích tối hậu, thì chúng ta chỉ chú trọng vào các nghi lễ mà bỏ lỡ đi cơ hội giáo hóa chúng sanh trên con đường giác ngộ, giải thoát.

Phương tiện là một con dao hai lưỡi. Nếu chúng ta tác ý dùng phương tiện với Bồ đề tâm, tâm giác ngộ, để làm Phật sự thì công đức vô lượng. Nếu chúng ta tác ý dùng Phật Pháp làm phương tiện vì lợi dưỡng cá nhân (tư tác) thì sẽ tạo nhiều nghiệp xấu ác. Nếu chúng ta dùng từ phương tiện trong Phật Pháp để biện minh cho những tư tác (ý muốn, ước vọng, cố ý, cố tình, hữu ý, chủ ý) mà không phải vì Bồ Đề Tâm thì đây cũng là tạo nghiệp. Những nghiệp xấu ác này rất nặng vì lợi dụng lòng tin của công chúng đối với Tam Bảo để họ phải thuần phục, tôn trọng, cung dưỡng mình có khi còn hơn cả người thân của họ.  

NIỆM PHẬT CÓ LỢI ÍCH GÌ?

Pháp môn Niệm Phật được chia thành bốn loại:

  • Thật Tướng Niệm Phật.
  • Quán Tưởng Niệm Phật.
  • Quán Tượng Niệm Phật.
  • Trì Danh Niệm Phật.

Trong bốn cách Niệm Phật, chuyên trì danh hiệu dễ hành nhất. Chuyên là chuyên nhất, chuyên tâm, Trì là giữ gìn, chẳng để nó mất đi. Danh hiệu là sáu chữ “Nam-Mô A Di Đà Phật”. Trong Kinh A Di Đà nói rất rõ là chúng ta phải niệm từ một tới bẩy ngày nhất tâm bất loạn, trước lúc lâm chung, thì sẽ được vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Niệm Phật không nhất tâm tức là những chủng tử Phật A Di Đà quá ít, quá yếu, không đủ hiện hành thành y báo và chánh báo lúc lâm chung nên khó được vãng sinh.

Về mặt hình thức, niệm Phật là đọc lớn tiếng hoặc đọc thầm danh hiệu của các Đức Phật và Bồ-tát. Tùy theo các pháp hành, niệm Phật có ý nghĩa và những diệu dụng khác nhau. Thí dụ như niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà là pháp môn căn bản của tông Tịnh Độ để thiết lập tâm trên danh hiệu Phật nhằm tịnh hóa những nghiệp chướng phiền não, đạt đến tâm thanh tịnh, an lạc, và giải thoát. Ở đây, thiết lập tâm có nghĩa là đặt trọn cuộc sống tâm linh của mình vào một vị Phật và quốc độ của Ngài với đầy đủ niềm tin (Tín), thực hành (Hạnh), và thề nguyện (Nguyện). Trong trường hợp này, niệm Phật A Di Đà không phải chỉ để vãng sinh về thế giới Cực Lạc mà là để thật sự sống với Đức Phật A Di Đà qua con đường hợp nhất với bản thể vô lượng thọ, vô lượng quang, và vô lượng công đức. Do đó, niệm trong ý nghĩa này không chỉ giới hạn ở việc suy niệm hay quán tưởng mà niệm ở đây là một pháp môn tu tập đặc thù.

Niệm nghĩa là nghĩ, nhớ, mong và Phật là Phật A Di Đà và cũng có nghĩa là Giác. Như vậy, niệm Phật tức là chúng ta luôn luôn nhớ, nghĩ đến Phật và chúng ta luôn sống trong tỉnh thức và có Chánh niệm trong mọi hành động. Niệm Phật là tu tâm vì vậy tâm niệm luôn nghĩ nhớ là chính. Đối tượng của tâm là tiếng Phật hiệu được dùng làm phương tiện để tu tâm và tiếng Phật hiệu của mỗi quốc gia lại mỗi khác, vì vậy, chúng ta đừng quá quan tâm về hình thức như phải niệm lớn hay nhỏ, nhanh hay chậm, bốn chữ hay sáu chữ, v.v.

Gần đây, pháp môn niệm Phật rất phổ biến vì ai cũng nghĩ đây là một pháp môn dễ tu và đạt nhiều lợi ích. Tuy nhiên, về mặt hình thức, thì niệm Phật rất dễ, nhưng niệm Phật để được vãng sanh về thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà thì chắc là không dễ vì tái sanh lại làm người thì đã là rất khó như Đức Phật dạy trong Kinh Tương Ưng bộ là được làm người cũng khó như một con rùa mù cứ mỗi trăm năm nổi lên một lần mà có thể chui cổ vào trong một khúc cây có một lỗ hổng trên mặt biển. Nói như vậy để chúng ta phải luôn tinh tấn niệm Phật chứ đừng nghĩ là tu về Cực Lạc rất dễ mà lơ là không cố gắng.   

Ngoài ra, tụng Kinh và niệm Phật thường đi chung và tương trợ lẫn nhau. Cả hai pháp tu này đều có mục đích tối hậu là nuôi dưỡng tâm Bồ-đề (tâm giác ngộ hay tâm hướng về sự giác ngộ) và làm cho tâm Bồ-đề của chúng ta đơm hoa kết trái.

NIỆM PHẬT CÓ PHẢI LÀ PHÁP MÔN THÙ THẮNG NHẤT KHÔNG?

Không có một nghề nào là tốt nhất cho mọi người. Thí dụ như có ba anh em: Một người có khiếu về toán học, một người mê âm nhạc, một người giỏi văn chương. Nếu cả ba ngươi này vì cảm tính rủ rê nhau học chung một nghành, thì chúng ta cũng có thể tự hiểu được là dù học nghành nào, nhiều lắm, cũng chỉ có một người thành công mà thôi. Cũng vậy, trong Phật Pháp, khi nói đến pháp môn thù thắng là để áp dụng cho từng cá nhân và hoàn cảnh chứ trong Phật Pháp không có một pháp môn nào là thù thắng nhất cho mọi chúng sanh.

Thông thường khi nói đến Tịnh Độ (quốc độ thanh tịnh) chúng ta thường nghĩ đến cảnh giới Tây phương Tịnh Độ, nơi có Đức Phật A Di Đà và chư Thánh chúng. Nhưng theo Phật Giáo Đại Thừa thì có mười phương tịnh độ và mười phương chư Phật. Tịnh là sạch, là thanh tịnh. Tịnh Độ là nơi thanh tịnh, là cảnh giới an lạc không có phiền não, khổ đau. Kinh điển thường nói đến Tịnh Độ với nhiều tên gọi khác nhau như Thanh tịnh quốc độ, Thanh tịnh Phật sát, Tịnh quốc, Tịnh thế giới hoặc là Phật quốc. Đó là trụ xứ của chư Phật và chư Bồ Tát tiếp độ và giáo hóa chúng sinh. Tùy theo công đức và nguyện lực đối với từng căn cơ của chúng sinh mà mỗi vị Phật có mỗi cõi nước khác nhau. Đó là nơi, là phương tiện giáo hóa của tất cả chư Phật. Điều đó có nghĩa rằng ngoài thế giới mà chúng ta đang sống còn có vô số thế giới khác. Có nhiều cõi Tịnh Độ khác nhau, nhưng thường hay nói đến bốn cõi Tịnh Độ chính là: Tịnh Độ Di Lặc, Tịnh Độ Dược Sư, Tịnh Độ A Súc Bệ Phật và Tịnh Độ A Di Đà.

Phật Giáo Việt Nam có ba truyền thống tu tập chính yếu là Thiền, Tịnh và Mật. Người Phật tử có thể chọn một pháp môn duy nhất để tu tập, hay chọn một pháp môn làm chính hạnh và một hay hai pháp môn kia làm trợ hạnh. Về phương diện Giáo Lý thì Đại Thừa hay Nguyên Thủy đều có giáo lý Tứ Đế, Duyên Khởi, Tam Pháp Ấn, Giới Định Tuệ v.v… Điều người Phật tử phải lưu ý là các pháp môn tu đều là phương tiện. Nhưng phương tiện nào mà chúng ta tu tập thích hợp, có sự an lạc, giải thoát thì nên áp dụng.

Thượng Tọa Thích Trí Siêu dạy Tu Tịnh Độ không nhất thiết chỉ căn cứ vào sự niệm Phật. Quý thầy giảng Tịnh Độ thường dựa vào Kinh tiểu bổn Di Đà, tức là Kinh Phật thuyết A Di Đà thường được tụng trong các buổi lễ cầu siêu, trong đó đức Phật nói người nào chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng đến tiếp dẫn về Cực Lạc. Từ đó quý Thầy dạy phải niệm Phật cho nhiều, nhiều thật nhiều để chắc chắn vãng sinh. Chư tổ lại tùy phương tiện đặt ra sổ công cứ để khuyến khích sách tấn người niệm Phật. Đây là điều rất tốt, nhưng ngoài phương pháp niệm Phật ra, còn nhiều cách tu khác để về Cực Lạc! Đức Phật A Di Đà, khi còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo, có 48 lời nguyện trong đó diễn đạt rất nhiều hạnh (công đức) để được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Thí dụ như ba lời nguyện liên quan đến việc vãng sinh dưới đây:

  • Lời nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh chí tâm tín mộ muốn sinh về cõi nước tôi cho đến mười niệm, nếu chẳng được sinh, thì tôi không ở ngôi chánh giác.
  • Lời nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh phát bồ đề tâm tu các công đức nguyện sinh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thì tôi không ở ngôi chánh giác.
  • Lời nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sinh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thì tôi không ở ngôi chánh giác.

Qua ba lời nguyện trên, ta thấy nguyện thứ 18 nhấn mạnh về lòng tin (Tín), nguyện thứ 19 nhấn mạnh về sự mong ước, phát nguyện, nguyện thứ 20 nhấn mạnh về sự hồi hướng. Ngoài ra phải tu các công đức, nếu không có công đức thì lấy gì hồi hướng! Nếu không có công đức mà phát nguyện thì đó chỉ là nguyện suông, không có sức mạnh.

Tu các công đức ở đây chính là hạnh, nó bao gồm tất cả: ngồi thiền, tụng Kinh,trì chú, niệm Phật, bố thí, trì giới, … và nhất là thương yêu cứu giúp kẻ khác, tất cả những việc vị tha, đem lại lợi ích cho mình và cho người đều là Công đức.

TẠI SAO NIỆM PHẬT ĐÃ NHIỀU NĂM MÀ VẪN CHƯA BỚT TẠP NIỆM?

Nếu niệm Phật mà tạp niệm dần dần bớt đi thì là tu có kết quả. Nếu qua một thời gian dài mà tạp niệm không bớt thì có thể là vì bạn đã hành trì không đúng cách, thiếu chuyên cần, hoặc vì pháp môn niệm Phật không hợp với bạn.

Niệm Phật có Lý niệm và Sự niệm. Lý niệm là nhờ đã có tu học và gần gũi Thiện tri thức nên biết rõ đạo lý, cảnh giới vì vậy sẽ dễ dàng chuyên tâm niệm đến nhất tâm bất loạn. Sự niệm là chưa hiểu rõ lý nhưng chuyên tâm niệm Phật đến khi tâm địa thanh tịnh thì được nhất tâm bất loạn và trí huệ tự khai như Lý niệm. Theo lời Phật dạy thì được làm thân người rất khó, vì vậy chúng ta cũng phải tự hiểu là vãng sanh về thế giới Cực Lạc còn khó hơn được làm thân người nên chúng ta phải cố gắng tu hành mới có kết quả. Hiện nay có rất nhiều lời bàn và các bài giảng trên mạng nói là niệm Phật vãng sanh không khó và đưa ra nhiều lý giải về câu “nhất tâm bất loạn”. Vậy thì bạn phải tự quyết định là tin lời Phật dạy trong Kinh hay tin vào lời bàn trên mạng. Hơn nữa nếu bạn thấy niệm Phật để được vãng sanh rất khó, như lời Phật dạy trong Kinh, mà vì vậy nên bạn cố gắng tu hành không giải đãi thì chỉ có lợi chứ không có hại. Thí dụ như nếu bạn có một đứa con mà bạn muốn cho nó chăm chỉ học hành để thành bác sĩ giúp đời, thì bạn (hiện không phải là bác sĩ) có nên nói với nó là học và thi ra trường bác sĩ rất dễ nên con chỉ cần học khoảng nửa tiếng đến một tiếng một ngày là đủ rồi hay không?

Nếu bạn đã khảo nghiệm và thấy mình đã hạ thủ công phu và hành trì đúng phương cách mà vẫn chưa bớt tạp niệm (bớt chứ không phải hết tạp niệm) thì nên chọn một pháp môn làm trợ hạnh. Nhất tâm bất loạn là Chánh niệm. xin xem phần trả lời câu hỏi TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI CÓ CHÁNH NIỆM? và LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ CHÁNH NIỆM?  Phương pháp phổ biến nhất để tu tập Chánh niệm là theo dõi hơi thở. Theo Thanh Tịnh Đạo Luận: “Hơi thở là một cái cọc, niệm là sợi dây vô hình để buộc cái tâm lại với thân”. Do đó, theo dõi hơi thở ra vào một cách liên tục sẽ giúp cho tâm được an trú và niệm được vững chãi. Để có Chánh niệm trong một thời gian ngắn, bạn có thể thực tập Thiền Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Ðức Phật đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Người có thực tập Chánh niệm thì dù tu pháp môn nào cũng không bị trở ngại nhờ năng lực của Chánh niệm có thể tịnh hóa ba nghiệp (thân, khẩu, ý) để bạn có thể trở về an trú trong dòng tâm thức giác ngộ của Tuệ giác. Đức Phật, trong Kinh Di Giáo dạy rằng: “Mất Chánh niệm là mất công đức”.

Có nhiều người cho rằng thiền là để cho người thượng căn, chứ trung căn và hạ căn chẳng tu được. Thật ra, cũng tương tự như niệm Phật thì dễ nhưng được vãng sanh về thế giới Cực Lạc thì khó, hành thiền theo dõi hơi thở để bớt tạp niệm và huân tập Chánh niệm thì dễ nhưng đạt được Tứ thiền hay quả A La Hán thì mới khó. Ngày nay khi khoa học chứng minh thiền có tác dụng hiệu quả đối với sức khỏe và tinh thần con người, thì thiền không còn chỉ dành cho những bậc tu hành nữa mà các phương pháp thiền, nhất là thiền Chánh niệm, đã trở nên gần gũi trong cuộc sống hiện đại mà bất cứ ai cũng có dễ dàng thực hành.

Bạn cũng đừng sợ là khi đã chọn pháp môn niệm Phật mà còn tu các pháp môn khác thì là không chuyên tu. Hiểu như vậy là không có đạo lý! Nếu bạn thật sự tin và có thành kiến như vậy, thì bạn hãy tự kiểm thảo xem mỗi ngày bạn niệm Phật bao nhiêu giờ và số giờ còn lại thì bạn thường làm gì và những việc này có giúp cho việc tu học, niệm Phật của bạn không? Trong khi Đức Phật dạy nước bốn biển chỉ có một vị mặn; cũng vậy, pháp Phật tuy có rất nhiều pháp môn nhưng chỉ có một vị giải thoát mà thôi. Như vậy thì bạn phải tự hỏi mình là tại sao bạn không dám học hay tu các pháp môn khác của Phật dù nó có mùi vị giải thoát, nhưng bạn lại tự cho phép mình làm rất nhiều việc không có mùi vị giải thoát!

Bạn cũng có thể huân tu những trợ hạnh khác để mau bớt tạp niệm như tích cực giữ gìn năm giới, thực hành Lục độ vạn hạnh và các Công đức khác rồi đem tất cả các việc thiện này hồi hướng về Tây Phương Tịnh Ðộ. Bạn hiện đang có cơ hội thù thắng để áp dụng những trợ hạnh này. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 37, Như Nghèo Đặng Của Báu, Đức Phật dạy: “Các ngươi đã trồng nhiều căn lành, phải nhẫn nhục tinh tấn, đừng phạm cấm giới, từ tâm chuyên nhứt, thanh tịnh trai giới, tu một ngày một đêm ở cõi Ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả trăm năm” và “Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi Phật khác.”

TẠI SAO ĐÃ NGUYỆN SANH VỀ CỰC LẠC LẠI CÒN NGUYỆN TRỞ LẠI TA BÀ ĐỂ LÀM GÌ?

Phật Giáo Phát Triển (Đại thừa) đề cao con đường của Bồ Tát phấn đấu để đạt được giác ngộ hoàn toàn (samyaksaṃbuddha) vì lợi ích của tất cả chúng sinh, và do đó còn được gọi là “Bồ Tát thừa”. Vì không có tâm phân biệt “tự” và “tha” và lấy lợi tha làm tự lợi, nên các vị Đại thừa Bồ Tát có một đại nguyện không ai theo kịp, đó là nguyện cứu độ cho tất cả, không phân biệt bạn và thù, thân và sơ, người và vật, hễ còn thấy có chúng sinh đau khổ là còn tìm cách cứu độ. Vì Bồ Tát xem tất cả chúng sinh là mình, nên chúng sinh còn trầm luân, tức là mình chưa tự tại giải thoát. Tịnh Độ Tông là một tông phái trong Phật Giáo Phát Triển vì vậy người Phật tử tu Tịnh Độ cũng là thực hành Bồ Tát đạo. Vì vậy, nên khi chúng ta phát nguyện vãng sanh về Cực lạc thì cũng nên phát nguyện trở lại Ta bà để hóa độ chúng sinh.

Thương Tọa Thích Trí Siêu dạy: Về Cực Lạc rồi thì được xem như ra khỏi lục đạo nhưng sẽ phải trở lại lục đạo. Cực Lạc cũng tương đương như hóa thành của Kinh Pháp Hoa. Về Cực Lạc ta sẽ sống rất lâu (Vô lượng thọ) nhưng không có nghĩa là không chết (bất tử). Nhờ sống rất lâu và chung quanh có chư Bồ Tát, Thanh Văn, Thiện tri thức sách tấn tu hành nên chắc chắn sẽ chứng được quả vị bất thối bồ tát. Trường sinh nhưng không bất tử, chính đức Phật Di Ðà cũng sẽ nhập Niết Bàn, sau đó Đức Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thành Phật ở cõi Cực Lạc, kế tiếp đến Đức Ðại Thế Chí Bồ Tát thành Phật.

Sau khi chứng được quả vị Sơ Địa Bồ Tát hoặc Bất Thối Bồ Tát, ta sẽ tùy nguyện thọ sinh hay hóa sinh. Có thể tái sinh lại ở Cực Lạc hoặc một cõi Tịnh Độ nào khác, hoặc trở lại Ta Bà cứu độ chúng sinh và cứ thế tiếp tục cho đến quả vị Nhất Sinh Bổ Xứ. Từ quả vị Bồ Tát cho đến khi thành Phật đương nhiên phải trở lại lục đạo để hóa độ chúng sinh.

TỤNG KINH CÓ LỢI ÍCH GÌ?

Tụng Kinh là một hình thức tu tập và để cầu nguyện và chuyển hóa cho chính mình hoặc cho người và các chúng sanh khác. Vì Kinh luôn hàm chứa công dụng giác ngộ và giải thoát nên khi chân thành đọc tụng Kinh điển với tâm thanh tịnh, mà không nhất thiết phải chú ý từng câu hay từng chữ để hiểu nghĩa, chúng ta có thể tiếp nhận được chất liệu giác ngộ và giải thoát từ lời dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, việc tiếp nhận được nhiều hay ít còn tùy thuộc vào sự thành tâm và tác ý của bạn.

Chúng ta phải hiểu là ngoài tụng Kinh ra, người Phật tử còn phải chuyên cần thọ trì Kinh là để biết và nhớ những lời dạy của Chư Phật, một hình thức của việc thọ trì Pháp. Thọ là tin nhận, trì là ghi nhớ hành trì qua việc giữ gìn Chánh niệm. Như vậy, thọ trì Kinh là ngoài việc đọc tụng chậm trãi để hiểu nghĩa Kinh, chúng ta phải tư duy, quán chiếu, và áp dụng lời Phật dạy trong Kinh, v.v. Mục đích của việc thọ trì Kinh điển hay thọ trì Pháp là nuôi dưỡng đạo tâm, tăng trưởng trí tuệ, tịnh hóa phiền não, cuối cùng là giác ngộ, giải thoát. Cho nên mục đích của sự thọ trì Pháp qua việc tụng Kinh, nghe Pháp, tư duy, quán chiếu, v.v. là “ngộ” chứ không phải là hiểu. Có ngộ mới hết phiền não, đau khổ, được thanh tịnh an lạc thật sự. 

TỤNH KINH KHÔNG HIỂU NGHĨA CÓ ĐƯỢC KHÔNG?

Kinh điển Phật Giáo Phát Triển (Đại Thừa) thường rất khó hiểu vì dựa trên những triết lý uyên thâm nhằm diễn tả sự vận hành của tâm thức. Những thí dụ trong Kinh phần nhiều là những biểu hiện của tâm thức. Vì vậy khi chúng ta tụng những bộ Kinh như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Kim Cang, Kinh Địa Tạng, v.v. mà không hiểu nghĩa cũng là chuyện bình thường. Vì Kinh luôn hàm chứa công dụng giác ngộ và giải thoát nên khi chân thành đọc tụng Kinh điển với tâm thanh tịnh, chúng ta có thể huân tập định lực và tiếp nhận được chất liệu giác ngộ và giải thoát từ lời dạy của Đức Phật.

Tuy vậy, ngoài lúc tụng Kinh, chúng ta phải trang trọng thọ trì Kinh. Nghĩa là chúng ta phải đọc Kinh, tư duy, quán chiếu, và áp dụng lời Phật dạy trong Kinh, v.v. để bồi đắp Chánh kiến, nuôi dưỡng đạo tâm, tăng trưởng trí tuệ, tịnh hóa phiền não để đi đến giác ngộ, giải thoát. (xin xem thêm phần trả lời câu hỏi TỤNG KINH CÓ LỢI ÍCH GÌ?).

THIỀN LÀ GÌ?

Thiền tiếng Nhật là “Zen”, tiếng Trung Quốc là “Chan”. Trong đạo Phật, thiền là một phương tiện để phát triển tâm linh để đưa hành giả trở về với đời sống chánh niệm, tỉnh giác, đạt đến trạng thái tâm an tịnh, xả ly, giác ngộ, giải thoát. Thiền là trung tâm trong hệ thống giáo lý của đức Phật vì đức Phật xưa kia do tu Thiền mà giác ngộ giải thoát. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định là những gì đức Phật thuyết giảng cho thế gian đều bắt nguồn từ sự khám phá, chứng nghiệm của Chánh pháp một cách thực tiễn và thực nghiệm từ bản thân ngài qua sự thực hành thiền định hơn là những học thuyết có tính lý thuyết suông và siêu hình.

Mặc dù có nhiều loại thiền như Như Lai Thiền hay Thiền Minh Sát Tuệ, Tổ Sư Thiền, Thiền Ðốn Ngộ, Thiền Yoga, Thiền Tây Tạng, v.v., nhưng chỉ có hai phương thức chính để thực hành thiền Phật giáo là thiền định và thiền quán.

Thiền định (thiền chỉ) là cách tu tập với mục đích hướng đến sự bình an và tĩnh lặng trong tâm. Thiền định (samatha) được thực hiện thông qua việc tĩnh tâm tập trung vào một đối tượng, với tất cả sự chú tâm sâu sắc nhất, để điều phục tâm hướng đến sự thanh lọc, loại bỏ các phiền não trong tâm trí, những ảnh hưởng tiêu cực xuất phát từ tham, sân, si, mạn, nghi. Người thực hành thiền định sẽ đạt được trạng thái hạnh phúc trong hiện tại; được thanh lọc tâm trí, cơ thể; được giải phóng khỏi các phiền não.

Thiền quán (thiền tuệ/thiền minh sát): Là cách thực hành hướng đến sự phát triển của trí tuệ và sự thông suốt về tâm linh. Thiền quán (vipassana) cũng có thể hiểu là nương vào hơi thở vào/ra để có một cái nhìn sâu sắc vào tận sâu bên trong của những hoạt động của tâm và thân. Thiền quán là sự kết nối sâu sắc của tâm và thân, là hành trình khám phá bản thân mình của mỗi cá nhân để thật sự hiểu mình tới tận gốc rễ. Thực hành thiền quán cuối cùng mục đích là để đạt tới sự hạnh phúc từ tâm trí, hướng đến sự cân bằng về trí tuệ, lòng từ bi và tình thương, không còn bị phụ thuộc vào các điều kiện bên ngoài tác động, chi phối.

Dù có những chức năng riêng nhưng trong thực hành, thiền định và thiền quán là hai phương pháp có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ cho nhau trong suốt quá trình tu dưỡng về tâm linh, trí tuệ. Như mặt hồ phẳng lặng, với cái tâm an tịnh, người ta có thể nhìn thấu suốt những gì bên dưới nó.

Muốn thực hành, chúng ta cần chú trọng vào ba nhân tố: 1) Chánh niệm (sati), 2) Tinh tấn (viriya) và 3) Trạch pháp (dhamma-vicaya). Nhờ ba nhân tố này, chúng ta có thể được kết quả trong bốn lãnh vực: 1) Định (samadhi), 2) Hỷ (piti), 3) Lạc (pasadhi) và 4) Xả (upekkha).

Nhân tố thứ ba là Trạch pháp rất quan trọng trong việc hành thiền (xin xem phần trả lời câu hỏi TRẠCH PHÁP LÀ GÌ?). Thí dụ như khi chúng ta cố gắng tinh tấn (viriya) mà nếu không dùng trạch pháp để tìm hiểu, khám phá thì tinh tấn đó là tà tinh tấn (miccha viriya). Trạch pháp được dùng để sử dụng cái gì đã được học, được biết vào trong sự thực hành, và đó là cách phát triển trí tuệ. Vì vậy cần phải có trí tuệ trong việc hay biết quan sát hiện tượng. Cần phải có Chánh kiến (samma ditthi). Cần phải dùng Trạch pháp để tìm hiểu khám phá, và tư duy chân chánh. Chỉ khi đó, tuệ tu (bhavanamaya panna) mới sinh khởi.

THIỀN TỨ NIỆM XỨ LÀ GÌ?

Tứ Niệm Xứ hay Tứ Niệm Xứ Minh Sát Tuệ (Satipatthàna-Vipassanà) là pháp hành Thiền duy nhất do chính Ðức Phật trước đây đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó, các đệ tử đã giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Ngày nay, có nhiều Phật tử bỏ qua và lãng quên pháp môn này, cho đó là pháp Tiểu Thừa. Ðây là một điều rất đáng tiếc.

Trong Kinh tạng Pāli, Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipatthana sutta) là một Kinh quan trọng về thiền. Những Kinh quan trọng khác về thiền như Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anaapanasati sutta), Kinh Thân Hành Niệm (Kayagatasati sutta), hay Kinh Niệm Xứ (Satipatthana sutta) những diễn giảng rộng thêm dựa trên nền tảng của Kinh Đại Niệm Xứ.

Theo Kinh Đại Niệm Xứ, thiền gồm có bốn thành phần chính yếu gọi là Bốn  Niệm Xứ: thứ nhất là quán niệm Thân (kayanupassanā); thứ hai là quán cảm Thọ (vedananupassana); thứ ba là quán niệm Tâm (cittanupassana); và thứ tư là quán niệm Pháp (Dhammanupassan).

Pháp hành Thiền Tứ Niệm Xứ Minh Sát Tuệ bao hàm việc thành tựu tri kiến bằng cách quan sát trực tiếp Bốn Niệm Xứ (Thân, Pháp, Tâm, Thọ) để thấy sự vật đúng theo thực tướng của nó (yathabhutam). Tri kiến này vượt ra ngoài mọi lý luận hay suy tưởng có  được do trí thức, và tiến đến những chứng nghiệm thật sự về đời sống cùng sự vật liên quan đến thực tại.

Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Đức Phật dạy cách vận dụng hơi thở (buộc niệm vào hơi thở) theo các đề mục của các niệm xứ trong thiền quán. Ngài cũng dạy rõ, khi hành giả chuyên cần thực hành thiền định vận dụng hơi thở đúng pháp thì có thể thành tựu Bốn niệm xứ, và xa hơn là thành tựu Bảy giác chi

Trong việc hành thiền có hai phần là đối tượng và tâm. Phần đối tượng không quan trọng, mà phần tâm mới đóng vai trò quan trọng. Đối tượng sinh khởi theo bản chất của chúng. Trong khi hành thiền, chúng ta không phải phát triển việc quan sát đối tượng mà chúng ta phải chú trọng vào việc phát triển các yếu tố liên quan tới tâm. Như đã trình bày trong phần trả lời câu hỏi THIỀN LÀ GÌ?, muốn thực hành thiền Tứ Niệm Xứ, chúng ta cần chú trọng vào ba nhân tố: 1) Chánh niệm (sati), 2) Tinh tấn (viriya) và 3) Trạch pháp (dhamma-vicaya). Nghĩa là mặc dù chúng ta thực tập thiền Tứ Niệm Xứ bằng cách quan sát trực tiếp Bốn Niệm Xứ (Thân, Pháp, Tâm, Thọ), nhưng cơ bản hành thiền là “tu tâm” nghĩa là thay đổi các tâm bất thiện thành các tâm thiện và phát triển các thiện pháp. Chính tâm mới thực hiện việc hành thiền. Đặc tính của tâm là hay biết, trong khi đó, đối tượng là những gì được nhận biết. Khi đầy đủ các điều kiện (nhân duyên), tuệ giác sẽ sinh khởi.

Khi thực hành thiền Tứ Niệm Xứ, chúng ta phải sử dụng trí thông minh và áp dụng Trạch pháp thay vì chỉ có tinh tấn. Sự vắng mặt của hiểu biết là sự có mặt của tâm si, và vì vậy chắc chắn tham hay sân sẽ nổi lên.

Khi sân sanh khởi, đừng cố đè nén hay gạt bỏ nó. Chúng ta phải quan sát nó để hiểu bản chất thật sự của sân trong tâm ta, và học hỏi từ nó. Đây gọi là “đơn thuần quan sát”, thay vì cố gắng “chú tâm”. Hành thiền chính là như vậy. Khi tâm ta cho cái gì đó là “tốt”, thì tham đã có mặt rồi. Khi tâm ta cho cái gì đó là “xấu”, thì bắt đầu bằng không thích nhưng sân đã có mặt rồi. Đừng cố xua đuổi sân. Chúng ta càng cố gắng xua đuổi sân, nó lại càng tăng trưởng. Sân luôn có tính tiêu cực, và nó có đặc tính xua đuổi đối tượng. Việc nhận hiểu ra cái gì đó là “không tốt” rất khác biệt với việc nghĩ niệm cái đó là “không tốt”. Với bất cứ đối tượng nào đến với chúng ta trong lúc hành thiền hay trong đời sống hàng ngày, tham, sân và si cũng đã xuất hiện.

Trước khi chính thức tu tập thiền Tứ Niệm Xứ, nếu có hoàn cảnh và điều kiện, bạn phải tạo cho mình một bối cảnh thuận duyên như tìm một nơi yên tịnh để tham thiền nhập định. Bạn cũng nên làm việc công đức như bố thí, cúng dường để tạo công đức và tịnh tu trong một thời gian cũng như huân tập và phát triển Chánh niệm trong đời sống hàng ngày để tịnh hóa thân tâm.

SỰ LỢI ÍCH CỦA DUY THỨC HỌC LÀ GÌ?

Duy thức là một tông phái Phật giáo, gọi là Duy thức tông hay Pháp tướng tông. Pháp tướng nghĩa là biểu hiện của các pháp.

Sự vật trên thế gian này là do duyên sinh. Duyên sinh thì vô tướng. Do phân biệt có tướng này tướng kia trên thế gian, thì tướng đó là tướng của thức. Duy thức học là siêu hình học của Phật giáo giúp chúng ta hiểu được sự hoạt động của Tâm, bằng cách hiểu được bản chất của các Thức. Hiểu được sự vận hành của tâm sẽ giúp chúng ta tu học để chuyển hoá tâm thức và sống an lạc, hạnh phúc hơn.

Duy thức học giúp chúng ta hiểu biết thêm về các hiện tượng tâm lý trong quá trình học hỏi và tu tập. Dựa trên duy thức học để giảng Phật Pháp cho giới trẻ và người Mỹ rất có hiệu quả.

PHẬT TỬ ĐI CHÙA NHƯ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG?

Hỏi: Một Phật tử khi quy y và thường xuyên sinh hoạt với một chùa, nhưng lại đến công quả và dự khóa tu ở một ngôi chùa khác, như thế, thì có lỗi là bỏ chùa của mình hay không?

Đây là câu trả lời của Thầy Thích Phước Thái:

Ðáp: Ðây là một quan niệm mang nặng thành kiến thật quá ích kỷ hẹp hòi. Thiết nghĩ, Phật tử chúng ta cần nên tránh. Hiện tượng nầy, thường xảy ra trong hàng ngũ Phật tử chúng ta. Ðó là một quan niệm không mấy tốt đẹp cho sự tu học. Người Phật tử phải có một tấm lòng bao dung rộng mở. Không nên nghĩ rằng, chỉ có ngôi chùa mình quy y và thường xuyên sinh hoạt mới là chùa mình. Còn những ngôi chùa khác thì không phải chùa mình. Chính cái quan niệm hẹp hòi ích kỷ nầy, mà phát sanh ra có những tệ nạn tranh chấp hơn thua với nhau. Ðây là một lỗi lầm rất lớn, mà hầu như đại đa số Phật tử chúng ta đều mắc phải. Người Phật tử không nên bảo thủ cố chấp như thế.

Ðành rằng, ngôi chùa mà mình đã quy y thọ giới, chính nơi đó đã từng ấp ủ nuôi lớn đời sống tâm linh của mình. Tất nhiên, là mình phải có bổn phận đóng góp công sức xây dựng duy trì và phát triển. Thông thường, người ta gọi đó là ngôi Chùa Tổ hay Tổ Ðình. Tuy nhiên, không phải vì thế mà mình không được quyền tới lui tu học hoặc làm công quả đóng góp ở các ngôi chùa khác. Giả như chùa mình (tạm gọi như thế, chớ thật ra trên đời nầy không có cái gì là thật mình hay của mình cả ) không có tổ chức tu học, dù có đi chăng nữa, nhưng nó cũng không đáp ứng đúng theo nhu cầu tu học của mình. Trong khi đó, thì những ngôi chùa khác lại có mở ra những khóa tu học đàng hoàng. Sự tổ chức tu học nơi đó rất chu đáo trang nghiêm và có chất lượng cao. Xét thấy, thật rất phù hợp cho nhu cầu tiến thân tu học của mình, mà lâu nay mình hằng ao ước mong muốn. Nhưng vì mình chưa đủ cơ duyên để được tu học. Có Phật tử lòng thì cũng muốn đi dự, nhưng vẫn còn áy ngại e dè không biết mình đi như thế có lỗi với thầy và chùa mình không? Vì sợ người ta cho rằng, mình không trung thành với thầy với chùa mình. Do nghĩ thế, nên Phật tử lại ngần ngại không dám đi. Nếu Phật tử có ý nghĩ như thế, thì đó là cả một sự mất mát thiệt thòi lớn lao cho Phật tử. Như thế thì thử hỏi trên bước đường tu hành làm sao Phật tử có thể tiến bộ cho được? Tôi nghĩ, không có vị thầy bổn sư nào mà có tâm lượng hẹp hòi ích kỷ như thế.

Phật tử nên nhớ rằng, khi Phật tử quy y Tam bảo, thì vị thầy truyền giới cho Phật tử chỉ là đại diện chung cho thập phương Tăng mà truyền trao giới pháp cho Phật tử. Như thế, thì Phật tử không những chỉ riêng kính trọng và học hỏi với vị thầy mình quy y không thôi, mà còn phải kính trọng và học hỏi đối với tất cả những Tăng, Ni khác. Ðó mới đúng nghĩa là người Phật tử.

Ðến việc đi chùa cũng thế. Ngôi chùa mà mình quy y lãnh thọ giới pháp, tuy đó là chùa gốc của mình, nhưng không vì thế mà mình không được đi tu học hay công quả ở các chùa khác. Vì chùa là của chung cho tất cả, chớ không dành riêng cho bất cứ người nào. Nếu ai còn thấy có sở hữu riêng tư, thì đó chưa phải là người tu theo đạo Phật. Vì còn chấp ngã, chấp pháp quá nặng. Như thế, thì làm sao tương ưng với đạo lý giác ngộ giải thoát?

Nhân câu hỏi của Phật tử, tôi cũng xin thành tâm góp thêm chút ý kiến về việc người Phật tử đi chùa. Thiết nghĩ, người Phật tử đi chùa nên có quan niệm cho thật rõ ràng. Mục đích của Phật tử đi chùa không phải chỉ có làm công quả không thôi, mà còn phải cố gắng nghe giảng pháp tìm hiểu học hỏi giáo lý Phật dạy. Phật tử có chịu khó cố gắng thường xuyên học hỏi, nghe pháp, thì Phật tử mới mở mang trí huệ và mới biết được đường lối tu hành đúng theo lời Phật Tổ chỉ dạy. Từ đó, Phật tử mới đem ứng dụng giáo pháp Phật dạy vào đời sống thực tế hằng ngày. Như vậy, thì mới có lợi ích thiết thực cho bản thân mình, cho gia đình và xã hội. Có học hỏi chánh pháp, thì người Phật tử mới có đủ khả năng quán chiếu phân biệt nhận rõ được lẽ chánh tà chân ngụy. Và như thế, thì Phật tử sẽ không bị lầm lạc rơi vào con đường tà ngoại.

Tuy rằng, việc đóng góp công sức cho chùa của Phật tử, đó là việc tốt nên làm. Vì ai cũng muốn cho mình có thêm phước đức. Thế nhưng, đó không phải là việc chánh yếu quan trọng, mà người Phật tử lại phải bỏ hết công sức đầu tư vào đó. Vì nếu Phật tử có thật tâm công quả, thì cũng chỉ hưởng được phước báo hữu lậu mà thôi. Phước báo nầy có giới hạn, chỉ hưởng dụng một lúc nào đó thì hết. Cho nên Phật dạy người Phật tử phải tu cả hai: ” Phước Trí trang nghiêm”. Phải tu phước và tu huệ, phước huệ có lưỡng toàn thì mới có thể thành Phật được.

Hơn nữa, Phật tử nên nhớ rằng, chùa là của chung, ai cũng có thể làm giúp được cả. Người đời thường nói: “có mợ thì chợ cũng đông, không mợ thì chợ cũng không bữa nào”. Nếu không có mình, thì cũng vẫn có người khác làm. Ðôi khi mình làm một công việc nào đó giúp cho chùa lâu năm, rồi ỷ mình có công lao nhiều lại sanh tâm cống cao ngã mạn khinh thường người khác. Vì nghĩ rằng, mình là người có công lao giúp cho chùa nhiều nhứt, không có ai hơn mình. Thậm chí, có người còn khinh thường luôn cả chư Tăng, Ni trong chùa. Người ta gọi những kẻ đó là mắc phải cái chứng bệnh “Công thần” rất nặng. Ði chùa với thái độ hành xử như thế, thì chẳng những mình không có phước chi hết, mà lại còn gây thêm tội lỗi nữa. Thử hỏi lỗi đó do đâu? Do vì mình thiếu học hỏi hiểu biết chánh pháp. Chẳng những mình không chịu học hỏi, nghe pháp, mà trái lại còn sanh tâm ngã mạn khinh chê những người khác. Người như thế, thật là đáng tội nghiệp thương xót biết bao!

Chúng ta thử nghĩ, nếu mọi người đến chùa chỉ biết có một mặt là làm công quả giúp cho chùa không thôi, không học hỏi giáo pháp tu hành gì cả, như thế, thì không biết tương lai đạo Phật sẽ đi về đâu? Và như thế, thì Phật giáo chỉ còn lại cái xác là những ngôi chùa, còn cái hồn thì không có. Tạo chùa như thế, thì thật là phí công vô ích quá! Tạo cảnh chùa với mục đích là để cho người Phật tử có nơi chiêm bái tu học. Sự tu học mới là phần quan trọng chính yếu. Còn tất cả những phần khác đều là phụ thuộc. Ðó là chưa nói, khi làm công quả có người còn sanh tâm giận hờn ganh ghét người nầy, chê bai trách móc người kia. Nghĩa là phước đâu không thấy, mà chỉ thấy toàn là phiền não không thôi. Ðiều nầy là một sự thật không sao tránh khỏi.

Cứ nhìn vào thực tế và những việc làm của họ thì ta sẽ thấy rất rõ điều đó. Từ sự bất hòa ganh ghét đố kỵ nhau, rồi họ lập thành phe phái bè nhóm để chống báng lẫn nhau. Phe phái nào mạnh, to mồm lắm miệng, thì thắng thế hơn. Thế là, vô tình người Phật tử biến ngôi Già lam tôn nghiêm thanh tịnh, trở thành nơi chỗ tranh cãi đấu đá hơn thua với nhau. Phật ở trên cao nhìn thấy cảnh tượng nầy, Ngài cũng thật vô cùng thương xót! Nhưng không biết phải làm sao khuyên giải đám đệ tử của mình? Ngẫm nghĩ, thật là quá đau lòng!

Tóm lại, việc tu học hay làm công quả giúp cho chùa là quyền quyết định của mỗi người. Người Phật tử không phải chỉ có tu học hay làm công quả ở chùa mình quy y không thôi, mà Phật tử cũng có thể đi tu học hay làm công quả ở bất cứ ngôi chùa nào khác nếu mình muốn. Tuy nhiên, theo lời Phật dạy, người Phật tử cần phải có trí huệ sáng suốt để biện biệt suy xét cẩn thận những điều lợi và hại qua hành động của mình. Phải xét rõ những nơi mà mình đến tu học, hay công quả có phù hợp đúng với Chánh Pháp Phật dạy hay không? Nếu xét thấy, nơi nào có lợi ích thiết thực cho việc tu học của mình, thì mình có quyền đến đó để tu học. Không ai có quyền ngăn cấm mình cả.

Kính chúc Phật tử có đầy đủ trí huệ sáng suốt để nhận định đúng đắn trong việc tu học của mình. Có thế, thì người Phật tử mới mong đạt được kết quả tốt đẹp.

XIN CHO BIẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP QUÁN NGHIỆP?

Tập Quán Nghiệp là những hành động tạo tác của thân, khẩu, ý do ảnh hưởng của tập quán xã hội. Tập Quán Nghiệp trực tiếp chi phối Tích Lũy Nghiệp và Cận Tử Nghiệp nên rất quan trọng quyết định cảnh giới tái sinh. Vì bị ảnh hưởng bởi tập quán, nên chúng ta rất khó cưỡng lại loại nghiệp này và người tạo nghiệp thường cho là mình đúng dù đang tạo thêm nghiệp xấu. Dưới đây là một số trường hợp mà người Phật tử phải luôn cảnh giác khi đến chùa để tránh vô tình tạo nghiệp xấu bởi sự chi phối của Tập Quán Nghiệp.

  • Khen mình chê người – Ca tụng Pháp môn mình thích trong khi coi thường, chỉ trích, hay chê các Pháp môn khác. Đây là vô tình tạo nghiệp hủy báng Phật Pháp vì Pháp môn nào cũng là Phật Pháp. Trong bài giảng Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh, Pháp Sư Tịnh Không gọi đây là “bệnh tự khen mình, chê người”.
  • Tôn sùng Thầy – Có nhiều Phật tử người Á Châu vì muốn tạo phước nên rất tôn sùng Thầy. Thí dụ như sợ Thầy, biết Thầy sai mà vẫn nghe theo và không dám có ý kiến, luôn tán thán Thầy, không dám đi hay giúp chùa khác vì sợ Thầy giận, v.v. Phật tử người Mỹ và Âu Châu không có tập quán này. Theo lý mà xét đoán thì tôn sùng Thầy không tạo được phước vì chỉ có những người tham danh, hám lợi, thích địa vị mới muốn được tôn sùng chứ sự tôn sùng không đem lại lợi ích gì cho người tu sĩ Phật Giáo. Nếu chúng ta tôn sùng một vị Thầy giữ giới và tu hành nghiêm túc thì chúng ta phạm lỗi coi thường, bất kính với vị này. Nếu chúng ta tôn sùng một vị Thầy còn ham danh lợi, địa vị thì không những chúng ta không tạo được phước mà có thể còn làm gia tăng bản ngã làm Thầy luyến tục, khó tu hơn. Như vậy, trong cả hai trường hợp, chẳng ích lợi gì cho cả đôi bên. Hơn nữa tập quán này còn có hại cho tương lai Phật Pháp vì một khi được tôn sùng thì vị Thầy có thể sẽ thấy mình lúc nào cũng đúng nên không cần phải học hỏi, sửa đổi và không có lý do để hướng thiện nữa.

Người Phật tử hiểu đạo thì như lý tác ý nên không tạo nghiệp xấu nghĩa là tác ý đúng Pháp như luôn kính tăng nhưng không tôn sùng Thầy. Trong bài viết “Công Trình Giáo Dục Của Phật Giáo Tại Mỹ” (https://www.chuanganphat.org/tham-luan/), Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đề nghị Phật Giáo Việt Nam phải “Bỏ bớt những hình thức rườm rà lễ mạo, những tập tục không cần thiết, những tín ngưỡng nặng giáo điều và sùng thượng cuồng dại thành phần Tăng lữ”.

  • Chấp trước – Căn bản của đạo Phật là buông bỏ. Không phải buông bỏ gia đình, bạn bè, công việc, mà là buông bỏ phân biệt, chấp trước. Nếu chúng ta còn nhiều chấp trước thì sự đi chùa, tu học hay làm các Phật sự của chúng ta chỉ có phần hình thức của đạo Phật chứ thực chất của đạo Phật thì không còn bao nhiêu vì vậy không tạo được công đức. Thí dụ như khi đến chùa mặc dù chúng ta rất tích cực cúng dường một vị Thầy, hay giúp đỡ một ngôi chùa, hoặc làm một Phật sự để tạo công đức, nhưng lần hồi do vì quá tích cực, hăng say nên chúng ta sinh ra phân biệt, chấp trước, dính mắc như cảm thấy đây là chùa hay Thầy của mình rồi từ đó lại sinh ra chỉ trích, nói xấu Phật tử hay chùa mình không thích. Đây là tạo nghiệp phá sự hòa hợp giữa các chùa và Phật tử với nhau. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 41, có câu “Lại có chúng sinh tuy có gieo căn lành, tạo phúc lớn, nhưng vẫn giữ tâm phân biệt, tình chấp sâu nặng, cũng cầu thoát luân hồi, nhưng không thoát được”
  • Ganh tỵ – Phật dạy: “Khổ tâm lớn nhất của con người là sự ganh ghét, đố kỵ”. Tâm ganh tỵ phá hoại bồ đề tâm và các công đức, và là chướng ngại rất lớn trên bước đường tu. Lòng ganh tỵ có thể hiểu là sự khó chịu khi thấy người khác hơn mình. Tuy sự ganh ghét, đố kỵ ảnh hưởng bởi tập quán nghiệp với những người có cùng Cộng Nghiệp rất khó bỏ và đòi hỏi nhiều cố gắng huân tu, nhưng khi đến chùa là nơi thanh tịnh thì người Phật tử phải tự thấy hổ thẹn. Hãy tích cực chuyển hóa tâm ghen ghét của mình để tạo công đức bằng cách huân tập phát triển lòng từ, sanh tâm hoan hỷ với những Phật tử chuyên cần tu tập, hộ trì Tam Bảo, và những Phật sự hoằng Pháp lợi sanh.
  • Trọng hình thức – Sau khi được truyền vào Trung Hoa, Phật Giáo đã trở thành một trong ba tôn giáo chính trong đó có Khổng Giáo, và Lão Giáo. Vì là một tôn giáo ngoại nhập từ Ấn Độ nên Phật giáo đã được người Trung Hoa điều chỉnh để giảm đi sự khác biệt với Khổng Giáo và Lão Giáo cho phù hợp với tâm lý địa phương.

Phật Giáo Phát Triển (Đại Thừa) được truyền từ Trung Hoa vào Việt nam khoảng hơn 2,000 năm trước vì vậy Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi những nghi lễ của Lão Giáo, Khổng Giáo, và tín ngưỡng nhân gian như các nghi lễ tế tự, thờ cúng tổ tiên, tang lễ, cúng vong, cúng sao, bùa, chú, trừ tà, chữa bệnh, coi bói, phong thủy, đốt vàng mã, v.v.

Giáo lý của Đức Phật, dựa trên luật nhân quả, đặt trọng tâm dùng từ bi và trí tuệ để chuyển hóa tâm  hay tu tâm để diệt khổ. Vì vậy dù chúng ta có siêng năng, tinh tấn, về chùa lễ Phật, cúng dường, làm công quả, nhưng nếu chúng ta chỉ trọng vào những phong tục, tập quán, và hình thức lễ bái mà không học hỏi giáo lý để tư duy và thực hành lời Phật dạy thì kết quả sẽ rất giới hạn. Hơn nữa nếu chúng ta quá chú trọng vào hình thức thì lần hồi có thể trở thành mê tín (tin vào những điều không phải do Đức Phật nói ra) nên không được sự gia trì của những bậc giác ngộ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Chư Phật.

  • Không muốn thay đổi – Không muốn thay đổi là căn bản của Tập Quán Nghiệp. Thí dụ như có nhiều Phật tử muốn thấy các chùa Việt Nam ở Mỹ phải được kiến trúc và sinh hoạt thuần túy như một ngôi chùa ở Việt Nam, và trong thâm tâm luôn nghĩ phải như vậy mới đúng là một ngôi chùa. Nhưng nếu chúng ta biết như lý tác ý nghĩa là hiểu được ý nghĩa sâu xa của hộ trì Tam Bảo là tích cực làm cho Tam Bảo được trường tồn, thì vai trò đặc biệt và vô cùng cấp thiết của người con Phật trong bối cảnh xã hội Mỹ hiện nay là chúng ta phải tích cực ủng hộ, phổ biến, giúp đỡ các thay đổi cần thiết để các chùa Việt Nam có thể hòa nhập được với tập quán xã hội Mỹ để có thể còn tồn tại và tiếp tục phát triển ở Mỹ trong tương lai. xin xem bài viết “Góp Ý Về Nhu Cầu Bảo Tồn Phật Giáo Việt Nam Tại Mỹ” trên trang mạng Chùa Ngàn Phật (www.chuanganphat.org).

Tu là chuyển nghiệp. Tu hạnh Bồ Tát là huân tu để trả và chuyển nghiệp xấu mà mình đã tạo, không tạo thêm nghiệp xấu, và giúp người chuyển nghiệp bằng cách ủng hộ, giúp đỡ các đạo tràng tu học và các Phật sự hộ trì Tam Bảo. Tập Quán Nghiệp từ nhiều kiếp nằm dưới dạng Tích Lũy Nghiệp ràng buộc những người có cùng Cộng Nghiệp và chi phối cách hành sự của từng cá nhân tạo thành Biệt Nghiệp nên rất khó chuyển và khó cưỡng lại. Nhưng nếu chuyển được hay phát tâm giúp người chuyển Tập Quán Nghiệp thì công đức vô lượng không thể nghĩ bàn. Kinh Vô Lượng Thọ, đoạn cuối của Phẩm 41, kết luận “nếu đem trí tuệ vô tướng (không phân biệt, chấp trước bởi Tập Quán Nghiệp) làm các công đức cầu sinh về Tịnh Độ thì quyết được sinh về cõi Phật”.

Muốn chuyển Tập Quán Nghiệp có hiệu quả thì chúng ta phải tích cực học hỏi giáo lý và từ đó thực tập như lý tác ý nghĩa là nhìn các pháp và tác ý hay tâm sinh đúng như lời Phật dạy. Nghĩa là huân tập khởi nghĩ về mọi sự vật và hiện tượng không ảnh hưởng bởi tư lợi mà đúng như bản chất của chúng, nghĩa là duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã. Nhờ luôn Như lý tác ý hay quán sát đúng đắn đối với mọi hiện tượng tâm lý và vật lý mà tâm thức chúng ta lần hồi trở nên trong sáng, thanh tịnh, và bớt bị chi phối bởi Tập Quán Nghiệp.

TẠI SAO CÓ NGƯỜI SIÊNG NĂNG ĐI CHÙA MÀ TÁNH TÌNH VẪN KHÔNG THAY ĐỔI?

Tu là sửa đổi thân tâm với mục đích là để diệt khổ. Tu tập là khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức để giảm bớt tham, sân, si vì đây là nguồn gốc của mọi sự khổ đau, nhưng đồng thời tâm thức cũng là cội nguồn của an vui, hạnh phúc.

Đi chùa là một trong những phương tiện với mục đích là để tu tập. Đi chùa thì dễ và ai cũng làm được, nhưng tu tập thì không dễ vì nó đòi hỏi sự học hỏi, nghiên cứu, thực tập và áp dụng. Thế nhưng, Phật tử chúng ta thường hiểu lầm phương tiện là mục đích, và đem việc đi chùa, ăn chay, tụng Kinh, niệm Phật, v.v. để đo lường sự tu tập.

Chúng ta thấy một người đi chùa, tụng Kinh, ăn chay, ngồi thiền, niệm Phật, làm công quả, nghe pháp, học hỏi giáo lý nhưng những hình tướng bên ngoài này không thể chứng minh họ có tu tập để khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức được. Một người có tu tập thường được thể hiện trong lối sống và cách cư xử của họ. Người nào không bỏn sẻn keo kiệt, luôn hoan hỷ, khiêm cung; nói lời từ ái, biết yêu thương, tha thứ, khoan dung và độ lượng; không chỉ trích chê bai người khác thì người đó đã tu tập có kết quả.

Một người đi chùa mà tánh tình vẫn không thay đổi thì cũng không có gì là lạ và có thể vì nhiều lý do như họ không được Thiện tri thức hướng dẫn hay không có khả năng tu tập. Chuyển hóa các tập khí và thay đổi cách hành động của mình là việc khó vì không thể chỉ trong một thời gian ngắn mà ta thay đổi được các thói xấu đã huân tập mấy chục năm, hay đã nhiều kiếp sống. Vì vậy, với một người có khả năng trung bình, mà chỉ hàng tuần đi chùa và không tu tập thêm ở nhà thì cũng phải cần thời gian lâu tánh tình mới có thể thay đổi. Tuy nhiên, chỉ cần bạn chịu học hỏi, tu tập để có chút Chánh niệm và tỉnh thức cũng có thể giúp bạn khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức.

Nếu bạn muốn tích cực tu tập để khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức thì nên chọn pháp tu Chánh niệm làm trợ hạnh. xin xem phần trả lời câu hỏi: TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI CÓ CHÁNH NIỆM? và LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ CHÁNH NIỆM? Bạn cũng có thể huân tu những trợ hạnh khác như tích cực giữ gìn năm giới, thực hành lục độ vạn hạnh và các công đức khác, v.v.

Chúng ta thường thấy ở các chùa trước và sau buổi lễ Phật tử gặp nhau thường ít khi nói chuyện, thảo luận về tu học. Là Phật tử, chúng ta nên dùng cơ hội gặp nhau ở chùa để giúp đỡ nhau trong việc tu tập.

LÀM SAO ĐỂ TU TẠI GIA ĐƯỢC KẾT QUẢ TỐT?

Muốn tu tập được kết quả tốt, người Phật tử tại gia, không phân biệt pháp môn hay tuổi tác, phải biết mình cần có những phẩm chất gì. Đối với Phật Giáo Tây Tạng, người Thầy thường nhận học trò dựa trên ba phẩm chất là 1) muốn tu học, 2) có khả năng tu học, và 3) không có thành kiến. Mới nghe qua thì chúng ta thấy quá giản dị, nhưng những phẩm chất này bao gồm tất cả những điều kiện cần phải có của một người học trò nếu muốn thành công trên bước đường tu học. Những phẩm chất này liên kết chặt chẽ và tương trợ lẫn nhau. Thí dụ như phải có khả năng thì chúng ta mới tiếp tục muốn tu học mà không chán; phải chọn pháp môn hợp với mình thì mới phát triển được khả năng; và không có thành kiến thì chúng ta mới chọn được pháp môn hợp với mình. Chúng ta hãy cùng khai triển ba phẩm chất này để có một khái niệm về những gì chúng ta nên làm và những gì không nên làm để việc tu tập của chúng ta có kết quả tốt.    

Phẩm chất thứ nhất là chúng ta phải tự kiểm thảo xem mình có “muốn tu học” hay không. Bây giờ người phát tâm tu học rất đông, nhưng đây không phải đúng nghĩa của muốn tu học vì phần nhiều thiếu cố gắng và không chuyên tâm. Thí dụ như những bài giảng Phật Pháp trên “YouTube” mà có nhiều thí dụ vui về đời sống gia đình, xã hội thường được rất nhiều người xem, trong khi những bài giảng của nhiều Thầy, dù nổi tiếng, về các phương pháp tu học thì rất ít người xem.

Rất nhiều người trong chúng ta không chuyên tâm tu học vì thiếu niềm tin và sự tinh tấn là hai lực trong Ngũ lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ) rất cần thiết để giúp chúng ta có năng lực tu học. Niềm tin phải được xây dựng từ sự hiểu biết. Vì hiểu Phật nên mình mới tin; vì hiểu những gì mình tin, nên niềm tin của mình mới dũng mãnh và tạo được Tín lực. Nếu chúng xây dựng được niềm tin dựa trên sự hiểu biết thì chúng ta có Chánh tín. Khi có được Tín lực, thì chúng ta mới có năng lực để tinh tấn tu học. Nếu chúng ta không hiểu lắm cái điều mình tin, thì chúng ta cũng không có tin lắm cái điều mình hiểu, vì vậy mà chúng ta thiếu tín lực nên tu học không có kết quả tốt và dễ bị rơi vào mê tín mà không hay biết. (xin xem thêm phần giải đáp câu hỏi “LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐỂ NHẬN BIẾT VÀ TRÁNH XA MÊ TÍN?”)

Ngoài ra, vì chúng ta không hiểu thấu lời dạy của Đức Phật về “Khổ Đế” trong “Tứ diệu đế” nên trong thâm tâm mình thường cảm thấy mình không khổ vì vậy chúng ta không chuyên tâm tu học. Cũng như một người luôn cảm thấy mình không bịnh thì đâu có muốn uống thuốc, nhất là những thuốc khó uống. Như vậy, muốn tu tập có kết quả tốt, chúng ta phải hiểu “Khổ Đế” bằng cách tư duy, quán chiếu Phật dạy về “Khổ Đế” để có năng lực chuyên tâm tu tập. Nghĩa là chúng ta phải luôn nghĩ là mình đang bịnh rất nặng và phải uống thuốc Phật Pháp thì mới hết bịnh được. Đây là cách chuẩn bị thân tâm để tu học có kết quả tốt.   

Nếu có khả năng và điều kiện, chúng ta nên học hỏi thêm về những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Tứ chánh cần, v.v. để xây dựng niềm tin trong sự hiểu biết.

Phẩm chất thứ hai là chúng ta phải tự kiểm thảo xem mình “có khả năng tu học” hay không. Điều này không dễ vì hầu hết chúng ta từ trước đến nay đều tu rất hời hợt, lơ là nên khó mà biết được là mình có khả năng hay không. Chúng ta chỉ thực sự biết được khả năng của mình sau khi đã chọn được một pháp môn hợp với mình, và sau khi chuyên tâm tu học một thời gian. Chúng ta nên nhớ là, dù không chuyên tâm tu học, nhưng những sự hiểu biết và công đức chúng ta đã huân tập vẫn còn đó và sẽ giúp chúng ta trên tiến trình tu học để có kết quả tốt. 

Phẩm chất thứ ba là “không có thành kiến”. Đối với một số Phật tử thì điều này rất khó thực hiện. Người bị thiệt thòi là người có thành kiến. Như đã trình bày ở trên, Phật tử chúng ta ngày nay có cả một thư viện Phật học trong máy vi tính nhưng vì thành kiến, như phân biệt tông phái, nên chúng ta lại không cho mình cơ hội để học hỏi tất cả những gì mà mọi người đều được học từ những lời dạy của Chư Phật, chư Tổ.

Trong bài giảng “Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh – Phần 1”, Pháp Sư Tịnh Không nói tự khen (pháp môn) mình, chê người là chứng bệnh chúng ta thường phạm. Có một số Phật tử cho rằng đọc Kinh hay nghe giảng về các pháp môn khác thì không phải chuyên tu. Điều này có thể chỉ đúng với những hành giả đang bỏ hết ngày giờ chuyên tâm tu tập, chứ đối với hầu hết Phật tử tại gia như chúng ta thì lời nói này không có đạo lý. Vì sao? Vì mỗi ngày chúng ta bỏ ra một chút thời gian để tu học theo pháp môn mình thích rồi sau đó tự cho phép mình coi TV, coi phim ảnh, đi shopping, làm overtime, v.v., nhưng chúng ta lại không cho phép mình nghe lời dạy của Chư Phật về các pháp môn khác vì cho rằng như vậy là không phải chuyên tu!

Nếu chúng ta cảm thấy mình có thành kiến thì nên cố gắng, dũng mãnh tự sửa đổi để khỏi bị thiệt thòi. Thành kiến là cản trở lớn nhất cho việc tu học của chúng ta vì thành kiến đi ngược lại với căn bản vô thường, khổ, và vô ngã của giáo lý đạo Phật. Vì vô thường, khổ, vô ngã là bản chất tự nhiên của pháp, nên khi chúng ta có thành kiến thì tâm chúng ta không thanh tịnh nên dù có cố gắng cũng khó có kết quả tốt. Nên nhớ, vô thường, khổ, và vô ngã luôn là khuôn mẫu nhằm đảm bảo mọi tư duy, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người Phật tử đúng Chánh pháp.

LÀM SAO ĐỂ ÁP DỤNG PHÁP TU VĂN TƯ TU?

Bất cứ sự tu tập nào đều đòi hỏi một sự huân tập có phương pháp để khai mở trí tuệ và để cho những hành động và tư tưởng thiện mà chúng ta muốn huân tập trở thành thói quen của chúng ta. Sự huân tập này đòi hỏi chúng ta phải qua một tiến trình của nghe, suy nghĩ và thực hành. Tiến trình này là pháp tu trì Văn, Tư, Tu gọi là tam học. Chúng ta phải bắt đầu tu trì Văn, Tư, Tu bằng những sự việc có thể suy luận và dùng ngôn ngữ để diễn bày. Càng tu tập bao nhiêu thì chúng ta càng có Kinh nghiệm trực tiếp bấy nhiêu.

  • VĂN là học hỏi. Chúng ta phải học hỏi giáo lý. Dù tu bất cứ pháp môn nào, chúng ta cũng nên có một hiểu biết về các giáo lý căn bản như Tứ nhiếp pháp, Tứ diệu đế và pháp tu Bát chánh đạo bằng cách nghe giảng, đọc sách, nghe giáo lý, học giáo lý, v.v. từ đó chúng ta có một niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo và có được kiến thức chân chánh, hiểu biết sáng suốt và khả năng nhận định đúng đắn để có lợi ích cho mình và cho người. 
  • TƯ là tư duy, dùng trí thông minh, kinh nghiệm của mình mà nhận xét, chiêm nghiệm xem những điều mình học hỏi có hợp với tâm nguyện và áp dụng được trong hoàn cảnh, khả năng của mình hay không. Cứ như vậy, càng tư duy thì trí tuệ của chúng ta càng tăng trưởng.
  • TU là thực hành và sửa đổi. Nhờ tư duy chúng ta tiếp tục tu tập cho dúng Pháp. Khi thực hành, chúng ta phải biết dụng tâm để phát triển trí tuệ và bồi đắp công đức vị tha cho đến khi thuần thục thành thói quen. Vì vậy, nhờ biết dụng tâm mà trí tuệ của chúng ta càng ngày càng phát triển.

Nếu chúng ta khéo léo áp dụng pháp tu trì Văn, Tư, Tu để khai mở trí tuệ cho đến khi thuần thục và trở thành một phần của đời sống, thì những kiến thức và ý niệm ban đầu của chúng ta chuyển hóa dần thành tuệ giác. Để có thể khéo léo áp dụng pháp tu trì Văn, Tư, Tu, chúng ta cần phải dụng tâm bằng cách áp dụng Phật Pháp để liên tục quan sát, lập luận và nhận định rõ ràng những cái thấy, biết, và ý tưởng của chúng ta để thanh lọc và xóa bỏ những nhầm lẫn do ức đoán của chính mình. Sở dĩ chúng ta có những lầm lẫn này là vì tham, sân, si và những tạp khí hay vô minh bẩm sinh. Một khi những sự nhầm lẫn này được quét sạch, ta sẽ có được một niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo và một kiến thức chân chánh, hiểu biết sáng suốt đúng theo chân lý thiện, ác, nhân, quả. Thí dụ như khi thực hành bố thí, ta nên dụng tâm áp dụng những gì mình đã học về Tứ diệu đế để hiểu thấu và cảm nhận được rõ ràng hơn về thực trạng đau khổ của con người, về nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến đau khổ, về sự chấm dứt đau khổ và về con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến việc chấm dứt khổ đau. Chúng ta sẽ thấy được cái hiểu của mình về Tứ diệu đế ngày càng rõ ràng và sâu hơn nhờ thực hành bố thí. Cũng như vậy, cái hiểu của mình sẽ càng ngày càng rõ ràng và sâu hơn nữa nếu mình tiếp tục khéo léo áp dụng Văn, Tư, Tu vào các giáo lý khác như luật nhân quả, nghiệp, duyên khởi, v.v.

Khi chúng ta làm bất cứ việc gì được phát nguồn từ sự hiểu biết về Pháp thì chúng ta sẽ càng tinh tấn hơn. Nhưng dù có cố gắng đến đâu đi nữa sự tu tập của chúng ta cũng có giới hạn, vì vậy người Phật tử, song song với việc tu tập, phải phát Bồ Đề Tâm nghĩa là Khởi lên tâm nguyện tu hành thành Phật để cứu độ chúng sinh. 

LÀM SAO BIẾT MÌNH TU CÓ KẾT QỦA?

Có người siêng năng tu học nhưng vẫn thấy bất an, phiền não là vì họ tu với cảm tính trong ảo tưởng, vọng kiến, tà kiến. Tu học là một hành động tích cực để diệt trừ Tham, sân, si là những nguyên nhân của khổ đau, nên khi thực hành đúng sẽ mang lại an vui, hạnh phúc vì những căn bản của phiền não sẽ càng ngày càng bớt đi, và đó là sự  vận hành tự nhiên của luật nhân quả. Thí dụ như khi thực hành bố thí thì tham sẽ bớt dần, và năng lượng của tình thương sẽ làm giảm đi năng lượng của giận hờn, trong khi đó tâm từ bi sẽ làm tiêu mòn niềm sân hận. Nếu suy sét về phương diện bố thí tài vật, thì những của cải mà mình đã bố thí là mình đã đầu tư nó vào sự an vui và hạnh phúc tương lai của mình và nó sẽ còn mãi đó. Ngược lại, những của mà mình chưa bố thí thì mình phải cất giữ và lúc nào cũng sợ bị mất. Hiểu như vậy thì chúng ta phải học hỏi và thực hành bố thí đúng Pháp bởi vì nó sẽ mang đến cho mình sự an vui, vẻ đẹp xuất phát từ tâm an lạc, và những niềm hân hoan trong cưộc sống.

Sau khi tu học một thời gian, chúng ta cần phải tự kiểm thảo kết quả của sự tu học xem có gì cần phải thay đổi không. Khi kiểm thảo, chúng ta phải luôn cảnh giác, vô tư, không thành kiến về những nhận xét của mình, và tuyệt đối dựa theo giáo lý và phải khắt khe với chính mình.

Nói chung thì chúng ta phải kiểm thảo xem mình có bớt tham, sân, si so với “thời gian trước đây” không? Thời gian trước đây có thể là tháng trước, một vài tháng trước, năm ngoái, hay lúc chưa tu học, v.v. Lúc mới tập kiểm thảo, chúng ta nên so sánh trong một khoảng thời gian dài và khi khả năng kiểm thảo đã thuần thì thời gian kiểm thảo sẽ có thể được rút ngắn lại. 

Chúng ta biết vì căn bản vô minh là Si nên ta mới Tham. Khi thỏa mãn lòng tham thì ta muốn gần gũi, chiếm đoạt, và lại càng tham hơn không bao giờ thấy đủ,….. để rồi đưa đến khổ đau; khi không được thỏa mãn thì ta không vui, bất mãn, ganh tỵ, sân hận, v.v., ….. và rồi đưa đến khổ đau.

  • Kiểm thảo Tham – Bạn hãy tự kiểm thảo xem bạn có khả năng nhận diện, quan sát, và chuyển hóa sự ham muốn của bạn thường xuyên và có hiệu quả hơn so với “thời gian trước đây” không? Ham muốn đây là ham muốn Ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) nhất là tiền tài, danh vọng, điạ vị, và sắc đẹp. Thí dụ như bạn biết mình đang ham muốn coi phim bộ, và vì biết coi phim tuy vui nhưng mất thì giờ và không có lợi ích, nên bạn tự kiềm chế bớt coi phim chuyển qua nghe giảng Pháp. Không ngờ khi nghe Pháp một thời gian, bạn lại thấy thích và không muốn coi phim nữa. Thí dụ như bạn đã có gia đình, nhưng thấy có một người khả ái thích bạn và bạn cũng rất thích người này, nhưng vì biết sự ham muốn này là nhân của khổ đau nên ban biết tự kiềm chế để dừng lại và chuyển hóa năng lực ham muốn này thành những ham muốn có lợi ích cho gia đình, xã hội, và cho sự tu tập.

Bạn hãy tự kiểm thảo xem, so với “thời gian trước đây”, mình có bố thí, cúng dường đúng Chánh Pháp, giúp đỡ người nghèo, tham gia các hoạt động từ thiện, v. v. nhiều hơn trước không? 

  • Kiểm thảo Sân – Bạn hãy tự kiểm thảo xem bạn có thể nhận diện, quan sát, và chuyển hóa sự giận dữ, ganh tỵ, sân hận của bạn thường xuyên và có hiệu quả hơn so với “thời gian trước đây” không? Thí dụ như bạn biết mình bắt đầu thấy giận, đang giận, và có khả năng bớt giận; hay biết mình bắt đầu thấy ganh tỵ, đang ganh tỵ, và có khả năng bớt ganh tỵ, v.v.

Bạn hãy tự kiểm thảo xem bạn có thường cảm thấy hổ thẹn sau khi biết mình giận, ganh tỵ, sân hận, và bây giờ sự giận, ganh tỵ, sân hận của mình có bớt đi so với “thời gian trước đây” không?

Bạn hãy tự kiểm thảo xem, so với “thời gian trước đây”, bạn có bớt sống cho riêng mình, và thường nghĩ đến sự an vui, và tùy hỷ với những người quanh mình hơn trước không?

  • Kiểm thảo Si – Bạn hãy tự kiểm thảo xem bạn có khả năng nhận diện những hành động thuần theo bản năng, thiếu suy nghĩ, hoặc ai nói sao cũng tin, hay làm theo, v.v., so với “thời gian trước đây” không?

Bạn hãy tự kiểm thảo xem, bạn có nghĩ đến hay giúp đỡ cho những chương trình hoằng Pháp lợi sanh nhiều hơn so với “thời gian trước đây” không?

Chúng ta đừng chỉ dựa vào những sự việc đang xảy ra trong đời sống để kết luận đó là kết quả của sự tu tập. Thí dụ như chúng ta đừng thấy mình càng ngày càng giàu có, thịnh vượng, hạnh phúc, v.v. mà liền kết luận mình được như vậy là nhờ mình có tu. Thật ra rất có thể là mình đang hưởng những phước đức mà mình đã tạo từ những kiếp trước mà minh không biết. Cũng vậy, nếu có những chuyện không tốt xảy ra cho mình thì có thể là mình đang trả những nghiệp mà mình đã tạo từ những kiếp trước chứ chúng ta cũng đừng kết luận là bởi vì mình đã không tu tập đúng.

Nếu chúng ta tu tập mà cảm thấy tự tin hơn, an vui hơn, hiền hoà hơn, thương yêu hơn, rộng mở hơn, an nhiên tự tại hơn so với “thời gian trước đây” thì chúng ta đã tu tập có kết quả tốt.

PHẬT TỬ TẠI GIA CÓ ĐƯỢC THUYẾT PHÁP KHÔNG?

Thuyết pháp, giảng Kinh là công việc tiếp nối huệ mạng Phật, là trách nhiệm chung của tất cả Phật tử có khả năng làm việc này. Phật tử xuất gia hay tại gia đều có thể thuyết pháp, giảng Kinh.

Hòa thượng Tịnh Không có nói: “Phật tử xuất gia thuyết pháp là tiếp nối sự nghiệp của Thích Ca Mâu Ni Phật và Phật tử tại gia thuyết pháp là tiếp nối sự nghiệp của cư sĩ tại gia Duy Ma Cật. Phật Thích Ca Mâu và Cư sĩ Duy Ma Cật đều là hai vị Phật xuất hiện ở thế gian chúng ta cùng một lúc, chỉ là Thị hiện với hai địa vị khác nhau, xuất gia và tại gia”.

Có nhiều cư sĩ tại gia đã cống hiến nhiều công lao trong việc hoằng dương Chánh pháp như cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã thuyết pháp thường xuyên tại chùa Xá Lợi hơn 10 năm; Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám có công đức giáo dục đào tạo tăng tài để truyền bá Chánh pháp; Vào thời Trần, có Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từng giảng dạy cho các Tăng Ni và cư sĩ đến tham vấn về đạo lý thiền; Ở Trung Hoa, thời xưa, thì có ông cư sĩ họ Bàng là người chứng ngộ lý thiền và cũng đã từng xiển dương chánh pháp; Cư sĩ Lý Bỉnh Nam là người đã từng giảng giải giáo lý đạo Phật cho chư Tăng Ni và cư sĩ. Ngoài ra, còn rất nhiều những vị cư sĩ thuyết pháp giảng Kinh như thế.

Hiện nay ở Mỹ có rất nhiều Phật tử tại gia đang đóng góp rất nhiều cho việc giảng dạy tại các Chùa và Trung tâm tu học. Điển hình là Tổ chức FPMT (Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition, tạm dịch là Tổ Chức Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa) với 164 Trung Tâm Tu Học ở 40 quốc gia trên thế giới trong đó có hơn 20 Trung Tâm Tu Học Dài Hạn (Retreat Facilities). Những Trung Tâm Tu Học này do Phật tử tại gia quản trị và điều hành. Có một số ít Tăng Ni và rất nhiều Phật tử tại gia chuyên lo về giảng dạy Phật Pháp tại các trung tâm này. xin xem bài viết “TÀI LIỆU THAM KHẢO: NHỮNG YẾU TỐ THÀNH CÔNG CỦA TỔ CHỨC PHẬT GIÁO TÂY TẠNG FPMT Ở HẢI NGOẠI” (https://www.chuanganphat.org/nhung-yeu-to-thanh-cong-cua-to-chuc-phat-giao-tay-tang-fpmt-o-hai-ngoai/)

Tuy nhiên vì phong tục tập quán nên có nhiều Phật tử ở Á Châu đối với Thầy xuất gia thì tỏ lòng cung kính, nhưng đối với “Thầy” tại gia thì không mấy cung kính. Đó chính là do nơi tâm phân biệt chấp trước, không thanh tịnh bình đẳng của họ mà thôi.

Thật ra, Phật tử tại gia có thể giúp đỡ chư Tăng Ni giảng dạy và giải đáp thắc mắc về những đề tài liên quan đến việc đem đạo vào đời vì họ có khả năng và nhiều Kinh nghiệm. Có nhiều khi, Phật tử đem những khó khăn, trở ngại trong đời sống vợ chồng, gia đình ra tâm sự với chư Tăng Ni và hỏi ý kiến phải giải quyết làm sao, thay vì họ nên hỏi các bạn đạo có tu học và có Kinh nghiệm ngoài đời. Để tránh vô tình tạo nghiệp xấu, là Phật tử chúng ta không nên đem chuyện đời đến tham vấn với chư Tăng Ni. Đây là mê tín. Thí dụ như, nếu không mê tín, thì chắc chúng ta không muốn đem chuyện khó khăn của vợ chồng, con cái của mình đến hỏi ý kiến một người không có kinh nghiệm về đời sống gia đình và không muốn lập gia đình.

Hiện nay có những bài giảng Phật Pháp trên mạng với những thí dụ rất sống động, vui nhộn về những trở ngại, khó khăn trong vấn đề hôn nhân, đời sống vợ chồng, con cái, v.v. Tuy những bài giảng này được rất nhiều Phật tử tán thán, hâm mộ, “like”, nhưng nghĩ cho cùng thì hiện tượng này không hợp lý cho lắm vì chẳng khác nào như chúng ta thích nghe một người không có kinh nghiệm về đời sống gia đình và không muốn lập gia đình giảng và giải đáp thắc mắc về những khó khăn giữa vợ chồng, con cái, v.v. Vấn đề bất lợi cho việc tu học mà Phật tử chúng ta ít để ý đến là, trừ trường hợp có khiếu bẩm sinh, chắc những vị giảng sư cũng đã phải tự học hỏi, tư duy, nghiên cứu về những vấn đề này để bài giảng được thiết thực và có lợi cho người nghe. Đây là một trong những trường hợp mà chúng ta cũng có thể coi là vô tình tạo nghiệp.

Nói như vậy để chúng ta thấy người Phật tử tại gia có thể đóng góp rất nhiều cho việc giảng dạy Phật Pháp nhất là trong phạm vi làm thế nào để áp dụng Phật Pháp trong cuộc sống mà hiện nay có rất nhiều người muốn học hỏi và áp dụng.

TẠI SAO ĂN CHAY?

Ăn chay là không ăn thịt động vật. Mục đích của ăn chay trong đạo Phật là để tịnh hóa gốc rễ của ba nghiệp, nhất là nghiệp sát hại chúng sanh và phát triển tâm từ bi để hỗ trợ cho tiến trình tu tập và tịnh hóa thân tâm. Người Phật tử tại gia được khuyến khích ăn chay chứ không bắt buộc phải ăn chay.

 

Join Our Mailing List

 

Cúng Dường Tam Bảo

   CÚNG DƯỜNG   

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát

 MẪU XIN CẦU AN & CẦU SIÊU 

Round Logo white